- Báo cáo toàn cầu về tham nhũng trong giáo dục do tổ chức Minh Bạch Quốc Tế công bố mới đây cho thấy, sự gia tăng số lượng sinh viên ở bậc đại học (từ 32 triệu năm 1970 lên tới 159 triệu năm 2008) cho thấy giáo dục ĐH không còn chỉ dành riêng cho những tinh hoa.

Trong bài trả lời phỏng vấn VietNamNet, TS Ngô Tự Lập đã nhận định “Xu hướng phổ cập ĐH không phải là ngẫu nhiên; nó phản ánh những thay đổi sâu sắc về bản chất và chức năng của trường ĐH”.

Vậy bản chất và chức năng của giáo dục ĐH đã thay đổi như thế nào? VietNamNet xin giới thiệu phân tích của TS Ngô Tự Lập.

{keywords}
Ảnh Lê Anh Dũng

Xu hướng phổ cập ĐH không phải là ngẫu nhiên; nó phản ánh những thay đổi sâu sắc về bản chất và chức năng của trường đại học.

Như chúng ta đều biết, chức năng đầu tiên, thường được nói đến nhất, của trường đại học là dạy

Trong nghiên cứu của mình về giáo dục ĐH của các nước cựu xã hội chủ nghĩa Đông và Trung Âu, tác giả Marek Kwiek cho biết: năm 1989, số học sinh phổ thông học lên đại học là dưới 10% ở Albania và Romania, giữa 10% và 15% ở Hungary, Slovakia đa số các nước cộng hòa Trung Á của Liên Xô cũ (Kyrgizia, Tajikistan, Turmenistan, Uzbekistan), giữa 15% và 20% ở Croatia, Cộng hòa Czech, Belarus, Macedonia, Moldova và Ba Lan, giữa 20% và 25% ở Belarus, Bulgaria, Latvia, Russia, Slovenia và Ucraine – và tỷ lệ cao nhất là ở hai quốc gia nhỏ vùng Baltic – Estonia (36%) và Lithuania (28%). Một thập niên sau đó, năm 1999, nhiều nước đã có tỷ lệ tuyển sinh trên 40%: Estonia (45%) và Lithuania (40%), Ba Lan (43) và Slovenia (51%)” (Marek Kwiek, 2008).

nghề hay nói theo cách của chúng ta ngày nay là “đào tạo nhân lực”. Các trường đại học Trung cổ phương Tây, như Kant mô tả trong “Xung đột giữa các khoa”, có ba Thượng khoa là Thần học, Luật học và Y học và một Hạ khoa, đó là Triết học (các ngành khoa học xã hội và nhân văn). Các Thượng khoa được gọi là thượng chỉ vì chúng nằm trong mối quan tâm của quyền lực nhà nước: các Thượng khoa dạy người dân tuân theo các quy tắc xã hội, nghĩa là đào tạo các thần dân, những người thừa hành. Khoa Triết học, ngược lại, bị coi là hạ chỉ vì nó không dạy bất kỳ điều gì khác ngoài việc sử dụng lý trí một cách tự do. Vì lẽ đó, nhà nước đặc biệt quan tâm và thường xuyên can thiệp vào nội dung giảng dạy của các thượng khoa, trong khi nói chung để cho các giáo sư triết học lo liệu nội dung giảng dạy của khoa mình. Nói theo ngôn ngữ ngày nay, các thượng khoa là các khoa chuyên ngành, dạy nghề, còn hạ khoa là khoa giáo dục tổng quát, có mục đích khai sáng.

Các trường ĐH trung cổ phương Đông cũng có bản chất dạy nghề tương tự. Mục đích chủ yếu của giáo dục đại học ở Trung Hoa và Việt Nam, chẳng hạn, là đào tạo quan lại cho bộ máy cai trị được xây dựng trên nền tảng Nho giáo.

Chức năng thứ hai của ĐH là chức năng Khai sáng, gắn liền với bản chất của ĐH hiện đại mà cha đẻ là Immanuel Kant. Đối với Kant, lý trí là một năng lực phổ quát mà nếu được sử dụng tự do có khả năng giúp con người khám phá thế giới và hành động đúng đắn, hợp với quy luật tự nhiên.

Tuy nhiên, theo Kant, phần lớn nhân loại không có khả năng sử dụng lý trí một cách tự do như thế. Ông gọi họ là những người vị thành niên về trí tuệ. Theo Kant, chức năng chính của đại học là khai sáng, tức là giúp người học thoát khỏi tình trạng vị thành niên về trí tuệ để "sử dụng tri thức của mình là không cần sự chỉ dẫn của người khác." Ý tưởng của Kant được Humboldt hiện thực hóa lần đầu tiên tại Berlin. Trường ĐH Khai sáng là ĐH tinh hoa.

Chức năng thứ ba của ĐH là chức năng sản xuất, gắn liền với sự hình thành và lớn mạnh của nền kinh tế tri thức. Đây là một chức năng tương đối mới. Trước kia, trong nền kinh tế truyền thống, nhiệm vụ của đại học là chuẩn bị cho quá trình sản xuất bằng cách đào tạo nhân lực.

Ngày này, trong nền kinh tế tri thức, trường ĐH trở thành một mắt xích quan trọng, nếu không nói là quan trọng nhất, của quá trình sản xuất. Đối với các ngành sản xuất có công nghệ cao, các công đoạn sản xuất quan trọng nhất - nghiên cứu, thiết kế và thử nghiệm – đều được thực hiện chủ yếu ở trường đại học. Trường ĐH đảm bảo việc sản xuất ra sản phẩm hoàn chỉnh, còn nhà máy chỉ có nhiệm vụ nhân bản các sản phẩm hoàn chỉnh ấy mà thôi.

Chức năng thứ tư của trường ĐH là chức năng phát triển cá nhân. Chức năng này mới chỉ trở

Tác giả Mỹ Chico Harlan, trong bài viết “Vietnamese teens' thirst for college outpaces country's educational system” trên tờ Washington Post, so sánh rằng với dân số gần 89 triệu dân, Việt Nam có chưa tới 400 trường ĐH và CĐ, trong khi Mỹ, với dân số  310 triệu, có tới hơn 4.400 trường. Tác giả này cũng cho biết, tỷ lệ sinh viên so với dân số của Việt Nam chỉ bằng một nửa của Thái Lan và một phần ba của Hàn Quốc. Số liệu của Worl Bank cho biết tỷ lệ sinh viên so với dân số của Việt Nam là 13% (năm 2006), thấp hơn rất nhiều so với các nước phát triển, như 70% tại Mỹ, Norway, Australia, hay giữa 70%-80% ở Phần Lan, New Zeland và Sweden (Kwiek Marek, 2008).

thành quan trọng trong thời gian gần đây, đặc biệt ở các xã hội đã đạt đến một trình độ phát triển nhất định. Điều này cũng tương tự như việc làm đẹp.

Trong một xã hội có trình độ phát triển thấp, việc làm đẹp là xa xỉ đối với đại đa số người dân. Nhưng khi xã hội trở nên sung túc hơn, việc làm đẹp trở nên phổ biến. Nhu cầu làm đẹp dẫn đến sự hình thành của cả một nền kinh tế làm đẹp.

Nhưng nhu cầu làm đẹp không chỉ dừng ở các khía cạnh vật chất, hữu hình như vậy. Vẻ đẹp còn thể hiện ở cả phương diện tinh thần, đặc biệt là về mặt trí tuệ. Xã hội càng phát triển, con người càng có nhu cầu hiểu biết, không phải để trở thành “nhân lực chất lượng cao”, không phải để tìm công ăn việc làm, mà nhằm tự hoàn thiện.

Nhiều người đã có bằng cấp và việc làm tốt vẫn đăng ký học các chuyên ngành khác nhau ở bậc đại học và sau ĐH. Ở Hàn Quốc, do truyền thống, nhiều phụ nữ ngừng đi làm sau khi lập gia đình nhưng vẫn theo học tại các trường ĐH.

Xin lưu ý rằng ở Hàn Quốc, có tới 81 - 84% học sinh tốt nghiệp phổ thông học lên ĐH. Học ĐH vì sự phát triển trí tuệ cá nhân như vậy có thể gọi là “mỹ phẩm trí tuệ” để so sánh với “mỹ phẩn thân thể”. Thật là vô lý khi chúng ta khăng khăng đòi hỏi mọi sinh viên ra trường phải làm đúng ngành nghề đào tạo.

Nhu cầu về “mỹ phẩm trí tuệ” đang tăng lên không ngừng tại hầu hết các nước và việc đáp ứng nhu cầu ấy thúc đẩy mạnh mẽ xu hướng phổ cập ĐH và trên thực tế biến giáo dục thành một ngành dịch vụ đầy hứa hẹn.

  • TS Ngô Tự Lập