“Khi qui hoạch tổng thể dự án 10 thủy điện bậc thang đầu nguồn Vu Gia-Thu Bồn có tổng dung tích phòng lũ là 1,070 tỷ m3 nước. Nhưng không hiểu sao khi đầu tư xây dựng các công trình thủy điện này, dung tích phòng lũ các hồ chứa đều bị cắt xén. Nên các hồ chứa này không có chức năng phòng lũ…”.


Ông Nguyễn Minh Tuấn, Thường trực Ban phòng chống lụt bão Quảng Nam đã bày tỏ lo lắng khi cung cấp các con số trên đây.

Ông Tuấn cho biết, đây là một thực tế mà các cơ quan của địa phương này kêu ca đã nhiều năm nay. Tuy nhiên, chủ đầu tư dự án 10 thủy điện bậc thang nơi đầu nguồn Vu Gia-Thu Bồn vẫn phớt lờ không quan tâm. Tuy nhiên, cơ quan cảnh báo, kêu ca mặc kệ, việc xây dựng thì các chủ đầu tư vẫn tiến hành bất chấp trái với thiết kế.

Nếu so với quy hoạch ban đầu, các hồ thuỷ điện bậc thang trên đầu nguồn Vu Gia-Thu Bồn có tổng dung tích phòng lũ là 1.070 triệu m3, nhưng sau khi được điều chỉnh và thiết kế cụ thể từng công trình thì dung tích phòng lũ các hồ thuỷ điện chỉ còn 146,44 triệu m3.

Khi A vương xả lũ bất thường gây ngập vùng hạ lưu vào mùa lũ 2010.


Như vậy sau khi hoàn thành, các hồ thuỷ điện bậc thang trên hệ thống sông Vu Gia-Thu Bồn hầu như không còn khả năng điều tiết giảm lũ, chậm lũ nữa, ông Tuấn khẳng định.

Điều đó đã được chứng minh qua nhiều mùa lũ năm 2010-2011 khi các hồ chứa thủy điện A Vương, Sông Tranh 2…xả lũ đã gây lũ chồng lũ vùng hạ lưu.

Bên cạnh đó, theo ông Tuấn, hầu hết các hồ chứa thủy điện đã và đang xây dựng trên vùng rừng núi Quảng Nam đều không có cửa xả đáy sâu. Chỉ duy nhất hồ chứa Đắk Mi 4 sau khi hoàn thành mới xây dựng cửa xả đáy để trả lại dòng chảy tối thiểu khi các huyện hạ lưu và Đà Nẵng bị thiếu nước vào mùa nắng mà địa phương này đã phải kêu lên tân Bộ Công thương mới được

Ông Tuấn cảnh báo, đây là điều vô cùng nguy hiểm khi gặp những cực đoan của thời tiết thì việc xử lý tình huống khẩn cấp vô cùng khó khăn.

Hệ thống sông Vu Gia-Thu Bồn là con sông lớn xếp thứ 9 của Việt Nam, vùng thượng nguồn có địa hình dốc từ Tây sang Đông, nhiều ghềnh thác, lại nằm trong khu vực có lượng mưa lớn, vì vậy lưu vực sông được đánh giá có tiềm năng nguồn thủy văn đứng thứ 4 trên toàn quốc.

Hiện trên vùng đầu nguồn Vu Gia-Thu Bồn có 58 dự án thủy điện được phê duyệt quy hoạch với tổng công suất 1.601 MW, điện lượng 6,525 tỷ KWh/năm.

Trong đó: 10 dự án bậc thang thủy điện trên hệ thống sông Vu Gia-Thu Bồn, do Bộ Công Thương thẩm định và phê duyệt quy hoạch với tổng công suất 1.094 MW, điện lượng 4,365 tỷ KWh/năm. Cùng 48 dự án thuỷ điện vừa và nhỏ do UBND tỉnh phê duyệt quy hoạch với tổng công suất là 507 MW, điện lượng 2,160 tỷ KWh/năm.

Chỉ tính dung tích hồ chứa 10 thủy điện lớn đầu nguồn Vu Gia-Thu Bồn hơn 3,014 tỷ m3 nước, mà người dân Quảng Nam bảo họ đang hàng ngày hàng giờ đối mặt với 10 quả bom nước treo lơ lửng trên.

Thực tế, kể từ ngàu Sông Tranh 2 kể từ ngày tích nước, gây động đất kích thích và thân đập ngấm nước đã khiến hơn 600 nghìn dân nơi vùng hạ lưu dọc sông Thu Bồn lo mất ăn, mất ngủ từ hơn 1 năm nay.

Theo số liệu báo cáo của Viện Quy hoạch thuỷ lợi thuộc Bộ Nông nghiệp & PTNT, dung tích phòng lũ các công trình thuỷ điện bậc thang theo quy hoạch từ năm 2000 có kết quả như sau:

TT

Tên công trình

Dung tích toàn bộ

Dung tích phòng lũ theo quy hoạch ban đầu

Dung tích phòng lũ khi thiết kế

Chênh lệch

1

Sông Bung 2

230

83

7,19

-75,81

2

Sông Bung 4

512

188

47,28

-140,72

3

Sông Bung 5

26

0

0

0

4

A Vương 1

344

110

14,25

-95,75

5

Sông Côn 2

378

203

0

230

6

Sông Giằng

94

0

0

0

7

ĐăkMi 1

251

104

0

-104

8

ĐăkMi 4

516

149

2,2

146,8

9

Sông Tranh 1

32

0

0

0

10

Sông Tranh 2

631

233

75,52

157,48

 

Tổng cộng

3.014

1.070

146,44

923,56

                                                                                                                                              (Đơn vị tính: triệu mét khối)

 Vũ Trung