Với sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, trong thời gian qua, việc thực hiện các chính sách, chương trình giảm nghèo đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tính đến cuối năm 2014, cả nước còn 5,97% tỷ lệ hộ nghèo, cuối năm 2015 còn 4,2% tỷ lệ hộ nghèo. Đời sống của người nghèo được cải thiện, điều kiện KTXH vùng nghèo được nâng lên.

{keywords}
Ông Ngô Trường Thi - Vụ trưởng, Chánh VP Quốc gia về giảm nghèo chia sẻ tại Hội thảo

Việt Nam được đánh giá là một trong 6 quốc gia hoàn thành trước thời hạn và là điểm sáng về thực hiện Mục tiêu giảm nghèo trong mục tiêu thiên niên kỷ và là nước đóng góp tích cực ngay từ đầu vào quá trình xây dựng các Mục tiêu Phát triển bền vững (SDGs) của Liên hợp quốc đến năm 2030.

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, việc thực hiện chính sách giảm nghèo ở Việt Nam còn một số khó khăn, hạn chế như: Công tác giảm nghèo không đồng đều, tỷ lệ hộ nghèo khu vực miền núi, vùng đồng bào DTTS còn cao, kết quả giảm nghèo chưa vững chắc; Hệ thống chính sách còn có sự chồng chéo, chia cắt, hiệu quả, hiệu lực chưa cao; Nguồn lực đầu tư còn dàn trải, chưa đáp ứng nhu cầu; Chính sách chưa khuyến khích thoát nghèo.

Để thực hiện mục tiêu giảm nghèo bền vững, hạn chế tái nghèo, góp phần thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế, đảm bảo an sinh xã hội, cải thiện đời sống, tăng thu nhập của người dân, đặc biệt là ở các địa bàn nghèo, tạo điều kiện cho người nghèo, hộ nghèo tiếp cận thuận lợi các dịch vụ xã hội cơ bản (y tế, giáo dục, nhà ở, nước sinh hoạt và vệ sinh, tiếp cận thông tin), tháng 9/2016, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định 1722/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình MTQG giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016-2020. Mục tiêu cụ thể là phấn đấu giảm tỷ lệ hộ nghèo cả nước bình quân 1% - 1,5%/năm (riêng các huyện nghèo, xã nghèo giảm 4%/năm; hộ nghèo dân tộc thiểu số giảm 3% - 4%/năm) theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều áp dụng cho giai đoạn 2016 - 2020; Cải thiện sinh kế và nâng cao chất lượng cuộc sống của người nghèo, bảo đảm thu nhập bình quân đầu người của hộ nghèo cả nước cuối năm 2020 tăng lên 1,5 lần so với cuối năm 2015 (riêng hộ nghèo ở các huyện nghèo, xã nghèo, thôn, bản đặc biệt khó khăn, hộ nghèo dân tộc thiểu số tăng gấp 2 lần); Thực hiện đồng bộ, có hiệu quả cơ chế, chính sách giảm nghèo để cải thiện điều kiện sống và tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người nghèo… Đến năm 2020, có 50% số huyện nghèo thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP; 30% số xã đặc biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn; 20 - 30% số xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn vùng dân tộc và miền núi thoát khỏi tình trạng đặc biệt khó khăn.

Phát biểu tại Hội thảo Nâng cao chất lượng công tác truyền thông về giảm nghèo trên báo chí năm 2017, ông Ngô Trường Thi, Vụ trưởng, Chánh Văn phòng Quốc gia về giảm nghèo (Bộ Lao động – TBXH) cho biết: Chương trình MTQG giảm nghèo giai đoạn 2016-2020 đưa ra cách xác định đối tượnghộ nghèo theo Chương trình từ đo lường nghèo dựa vào thu nhập sang đo lường nghèo đa chiều, nhằm đáp ứng mức sống tối thiểu và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản của người dân, đồng thời thay đổi phương pháp xác định đối tượng từ điều tra thu nhập trực tiếp sang đánh giá các đặc điểm của hộ gia đình; tăng cường sự tham gia của người dân, phân cấp cho xã công nhận hộ nghèo, hộ cận nghèo, hộ thoát nghèo. Chương trình đươc xây dựng theo hướng: Ban hành các tiêu chí xác định đối tượng, địa bàn; nguyên tắc, tiêu chí phân bổ vốn trung hạn; thống nhất cơ chế tổ chức thực hiện; thống nhất bộ máy chỉ đạo, điều hành chương trình; ban hành khung giám sát, đánh giá chương trình.

Đặc biệt, Chương trình MTQG giảm nghèo giai đoạn 2016-2020 hướng tới một số điểm mới như: Tập trung vào địa bàn khó khăn nhất, vùng sâu, vùng xa, dân tộc, miền núi; Tích hợp các chương trình, dự án trước đây như: CT30a, 135, XKLD, Thông tin truyền thông; Thực hiện giảm nghèo theo tiêu chí đa chiều, lấy chỉ tiêu thu nhập là chính, bên cạnh đó cũng xác định mức độ thiếu hụt các dịch vụ xã hội cơ bản về y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch và vệ sinh, thông tin; gắn kết với thực hiện CTMTQG XDNTM và 21 Chương trình có mục tiêu; Thực hiện phân bổ vốn trung hạn, bảo đảm công khai, minh bạch, đẩy mạnh phân cấp cho địa phương, cơ sở; Chương trình lấy đối tượng người nghèo làm trung tâm để thực hiện hỗ trợ, mở rộng thêm đối tượng hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, tạo điều kiện để người lao động là người sau cai nghiện ma túy, nhiễm HIV/AIDS, phụ nữ bị buôn bán trở về.

Chương trình cũng chuyển mạnh từ việc cấp phát, cho không sang hỗ trợ có điều kiện để nâng cao ý thức, trách nhiệm của người nghèo. Nhà nước chỉ hỗ trợ những gì người dân không làm được, nhà nước không làm thay mà chỉ ban hành cơ chế hướng dẫn thực hiện. Tăng cường trao quyền cho người dân, cộng đồng để phát huy sáng kiến, cách làm hay phù hợp đặc điểm địa bàn, đặc điểm nhóm dân cư, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, đi đôi với trách nhiệm giải trình. Nguồn lực thực hiện Chương trình chủ yếu là từ ngân sách nhà nước, đồng thời huy động sự đóng góp của doanh nghiệp, cá nhân, cộng đồng, điều này được thể hiện rõ trong cách thức triển khai thực hiện các dự án, tiểu dự án của Chương trình. Về cơ chế, tổ chức bộ máy chỉ đạo điều hành thực hiện được thống nhất từ Trung ương đến cơ sở.

Theo khung Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020 có tổng mức vốn thực hiện từ ngân sách nhà nước tối thiểu là gần 46.000 tỷ đồng. Ngoài ra, huy động nguồn viện trợ nước ngoài và các nguồn vốn hợp pháp khác khoảng 2.000 tỷ đồng. Chương trình dự kiến sẽ gồm 5 dự án thành phần, trong đó bao gồm nhiều tiểu dự án: Dự án Chương trình 30a; Chương trình 135; Dự án hỗ trợ phát triển sản xuất, ngành nghề, dịch vụ, nhân rộng mô hình giảm nghèo trên địa bàn các xã ngoài Chương trình 30a và Chương trình 135; Dự án truyền thông và giảm nghèo về thông tin; Dự án 5 là nâng cao năng lực, giám sát và đánh giá thực hiện Chương trình.

Hoàng Oanh