4 năm trở lại đây, việc dạy nghề cho đồng bào dân tộc thiểu số được ‘tiếp sức’ bởi đề án 1956. Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc ‘cõng nghề’ lên núi để nghề ở lại được với bản còn nhiều khó khăn.

Chủ trương hay, thực hiện khó

Ưu tiên đào tạo nghề cho con em đồng bào các dân tộc thiểu số là một trong những chính sách quan trọng của Việt Nam. Trong Đề án 1956 về đào tạo nghề cho lao động nông thôn, những ưu tiên này được biến thành những chính sách cụ thể cho người dân tộc như: người dân tộc thiểu số được hỗ trợ chi phí học nghề (trình độ sơ cấp, dưới 3 tháng) với mức tối đa là 3 triệu đồng/người/khóa.

Ngoài việc được trợ cấp tiền ăn, tiền đi lại, người học nghề còn có thể vay vốn phục vụ quá trình học nghề. Lao động người dân tộc sau khóa học được vay vốn từ Quỹ quốc gia về việc làm thuộc chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm để tự tạo việc làm.

Theo đánh giá của Ủy ban dân tộc thiểu số: “Đào tạo nghề là một trong những giải pháp tốt nhất để giúp cho lao động nông thôn nói chung và lao động dân tộc thiểu số nói riêng từng bước dịch chuyển lao động, thay đổi phương thức sản xuất; phát triển các ngành nghề mới dựa trên những thế mạnh sẵn có của địa phương để phát triển sản xuất kinh doanh, thu nhập ổn định, xóa đói giảm nghèo bền vững”.

{keywords}
Dạy nghề dệt thổ cẩm ở Hòa Bình

Việc thực hiện Đề án 1956 thời gian qua đã đạt được những kết quả nhất định. Các huyện nghèo vùng dân tộc hầu hết đã có cơ sở đào tạo nghề, có cán bộ chuyên trách dạy nghề. Bên cạnh đó còn phối hợp với các trung tâm dạy nghề khác, các nghệ nhân dạy nghề truyền thống, nghề tiểu thủ công nghiệp, nông nghiệp. Một bộ phận người dân tộc được vay vốn đã sống được với nghề và thoát nghèo bền vững.

Tuy nhiên, theo Ủy ban dân tộc thiểu số, việc dạy nghề cho đồng bào còn nhiều khó khăn do nhiều nguyên nhân, có cả chủ quan và khách quan.

Cái khó của các địa phương miền núi là chính quyền, đoàn thể các xã chưa hiểu và chưa cùng vào cuộc với huyện trong tuyên truyền, vận động bà con học nghề. Bà con không đi học nghề cũng vì chưa được giải thích các chế độ chính sách rõ ràng. Với lao động là đồng bào dân tộc thiểu số, học nghề đã khó, sống bằng nghề đã học càng khó, ngay cả các nghề đặc thù của địa phương như đan lát, dệt thổ cẩm, mây tre... cũng khó triển khai đào tạo. Bởi, bà con sau học nghề làm ra sản phẩm chẳng biết bán cho ai. Trong khi đó, đào tạo các nghề phi nông nghiệp như nề, may, mộc... thì học viên tốt nghiệp ít được các chủ cơ sở tiếp nhận do tay nghề không đạt yêu cầu, ý thức lao động không cao.

Những tín hiệu khả quan

Sau hơn 3 năm thực hiện công tác dạy nghề, nhiều địa phương vùng đồng bào dân tộc đã tổng kết, rút ra những kinh nghiệm quý từ đó có những thay đổi phù hợp để giúp nghề ở lại được với bản.

Chẳng hạn như ở Lâm Đồng, cán bộ huyện chuyên trách dạy nghề hướng dẫn bà con theo phương thức ‘cầm tay chỉ việc’ trong các ngành nghề truyền thống mà Lâm Đồng có thế mạnh như trồng cà phê. Nhờ đó, đồng bào biết cách ủ phân, tỉa và ghép cành... Sau nhiều năm loay hoay chuyển đổi cây trồng vì cách thức sản xuất lạc hậu, năng suất thấp, giờ đây, nhiều người dân ở Lâm Đồng đã có thể bám lấy cây cà phê nhờ học được phương thức sản xuất mới cho năng suất cao.

{keywords}

Hướng dẫn kỹ thuật chăm sóc cà phê cho đồng bào DTTS ở huyện Bảo Lâm, Lâm Đồng. Ảnh: Theo baolamdong

Một cách làm hay khác ở Lâm Đồng là việc vận dụng phương pháp ‘cấp gì làm nấy’. Như cấp bò, cây cà-phê, chuối, phân bón... cho bà con xong tổ chức luôn lớp hướng dẫn thực hiện, nhờ vậy mà đạt hiệu quả rất cao.

Theo Sở LÐ-TB-XH Lâm Ðồng, sau khi tham gia các khóa học nghề, bà con đồng bào dân tộc thiểu số đã có những bước tiến rõ rệt từ kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp, năng lực làm chủ máy móc, đến tác phong lao động. Nhờ đó, có khoảng 85,5% học viên sau khi tốt nghiệp đã tìm được việc làm, hoặc mạnh dạn đầu tư mở rộng quy mô sản xuất theo các mô hình mới, làm giàu ngay trên quê hương mình.

Hay như ở Yên Bái, rút kinh nghiệm từ những năm trước, Sở LÐ-TB-XH tỉnh đã đẩy mạnh công tác tuyên truyền về đào tạo nghề trên các phương tiện thông tin & truyền thông. Cổng thông tin điện tử của tỉnh còn mở chuyên mục “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn” kịp thời đưa các văn bản chỉ đạo, thông tin, giải đáp thắc mắc cho người lao động, tổ chức cá nhân về công tác đào tạo nghề. Giám đốc Sở LÐ-TB-XH còn đối thoại trực tuyến với người dân. Bên cạnh đó, công tác điều tra, khảo sát và dự báo nhu cầu dạy nghề cho người dân cũng được coi trọng. Trong năm 2013, Yên Bái cũng cử 5 đoàn công tác đi kiểm tra hướng dẫn tại các huyện.

Nhờ đó, việc thực hiện triển khai đề án 1956 của Yên Bái đã bước đầu phát huy được hiệu quả. Số lao động nông thôn được học nghề là 9.595 người với tổng kinh phí hỗ trợ là 8.717 triệu đồng. Tỷ lệ lao động có việc làm sau khi học nghề là 85%. Năm 2013, có 4.597 người học xong đã tự tạo việc làm, 595 người được doanh nghiệp tuyển dụng.

Những tín hiệu khả quan ở nhiều địa phương cho thấy, công tác đào tạo nghề, hỗ trợ vốn làm nghề giống như việc cung cấp chiếc cần và hướng dẫn cách câu cho người lao động dân tộc thiểu số. Chính sách đã có, chủ trương đã thông, việc dạy nghề triển khai thành công còn phụ thuộc vào việc thu hút người dân đến lớp ‘học câu’ và chỉ ra ‘chỗ câu’ cho họ của từng địa phương.

D.Minh (tổng hợp)