- Ông bà ngoại tôi có 5 người con, mẹ tôi là con thứ hai. Ông ngoại tôi mất năm 1985 không để lại di chúc. Bà ngoại tôi lập di chúc năm 2005 để lại ½ căn nhà chia đều cho 5 người con. Năm 2013 mẹ tôi mất, năm 2014 bà tôi mất. Các dì và cậu tôi bắt đầu chia tài sản. Cậu tôi nói tôi chỉ được hưởng 1/6 căn nhà do ông ngoại tôi để lại. Vì mẹ tôi mất trước bà ngoại tôi nên phần tài sản bà ngoại tôi chia cho mẹ tôi trong di chúc tôi không được hưởng. Xin luật sư cho biết tôi được chia như vậy có đúng không? Nếu không tôi phải làm thế nào để đòi lại quyền lợi chính đáng của mình?

TIN BÀI KHÁC

{keywords}
Tôi không được chia phần thừa kế của mẹ vì mẹ mất trước bà (Ảnh minh họa)

Thứ nhất, về phần di sản ông bạn để lại sau khi mất:

Vì ông bạn mất từ năm 1985 đến nay, tức là đến nay đã được 30 năm theo quy định tại điều 645 Bộ luật dân sự 2005: “Thời hiệu khởi kiện để người thừa kế yêu cầu chia di sản, xác nhận quyền thừa kế của mình hoặc bác bỏ quyền thừa kế của người khác là mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế.” Như vậy, đối với phần di sản là 1/2 căn nhà của ông bạn đã hết thời hiệu khởi kiện chia thừa kế. Tuy nhiên, Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết số 02/2004/NQ-HĐTP ngày 10/8/2004 và hướng dẫn giải quyết các trường hợp hết thời hiệu khởi kiện thừa kế như sau:

- Trường hợp trong thời hạn mười năm, kể từ thời điểm mở thừa kế mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về quyền thừa kế và có văn bản cùng xác nhận là đồng thừa kế hoặc sau khi kết thúc thời hạn mười năm mà các đồng thừa kế không có tranh chấp về hàng thừa kế và đều thừa nhận di sản do người chết để lại chưa chia thì di sản đó chuyển thành tài sản chung của các thừa kế. Khi có tranh chấp và yêu cầu Toà án giải quyết thì không áp dụng thời hiệu khởi kiện về quyền thừa kế, mà áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết và cần phân biệt như sau:

+ Trường hợp có di chúc mà các đồng thừa kế không có tranh chấp và thoả thuận việc chia tài sản sẽ được thực hiện theo di chúc khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo di chúc.

+ Trường hợp không có di chúc mà các đồng thừa kế thỏa thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo thoả thuận của họ.

+ Trường hợp không có di chúc và các đồng thừa kế không có thoả thuận về phần mỗi người được hưởng khi có nhu cầu chia tài sản, thì việc chia tài sản chung đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về chia tài sản chung.

- Trường hợp người chết để lại di sản cho các thừa kế nhưng các thừa kế không trực tiếp quản lý, sử dụng mà di sản đó đang do người khác chiếm hữu bất hợp pháp hoặc thuê, mượn, quản lý theo uỷ quyền... thì các thừa kế có quyền khởi kiện người khác đó để đòi lại di sản.

Đối chiếu với quy định nêu trên thì trường hợp của gia đình bạn, đối với phần di sản ông bạn để lại là 1/ 2 căn nhà nếu các đồng thừa kế (các con của ông bà bạn) thỏa thuận đây là tài sản chung chưa chia  thì các đồng thừa kế có thể gửi đơn khởi kiện đến tòa án để yêu cầu giải quyết việc chia tài sản chung của các đồng thừa kế thì tòa án sẽ thụ lý đơn; trong trường hợp này, tòa án sẽ áp dụng các quy định của pháp luật về chia tài sản chung để giải quyết.

Thứ hai, đối với phần di sản do bà bạn để lại là một phần hai giá trị căn nhà còn lại. Do bà bạn có lập di chúc nên phần di sản được chia theo di chúc. Khoản 2 Điều 667 Bộ luật dân sự 2005 quy định về hiệu lực pháp luật của di chúc như sau: “2. Di chúc không có hiệu lực pháp luật toàn bộ hoặc một phần trong các trường hợp sau đây:

a) Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;

b) Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế.

Trong trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực pháp luật.”

Theo quy định tại điểm a Khoản 2 Điều 667 nêu trên thì nếu người thừa kế theo di chúc chết trước người để lại di chúc thì phần di chúc đối với người đó không có hiệu lực.

Điểm a Khoản 2 Điều 675 BLDS quy định thừa kế theo pháp luật được áp dụng đối với phần di sản mà người thừa kế theo di chúc chết trước người lập di chúc. Theo đó, sau khi mẹ bạn chết thì phần tài sản bà bạn chia cho mẹ bạn sẽ được chia theo pháp luật sau khi bạn chết – chia đều cho những người thuộc hàng thừa kế thứ nhất của bà bạn (bố mẹ, vợ/chồng, con), nếu không còn/không có những người ở hàng thừa kế thứ nhất thì sẽ chia đều cho hàng thừa kế thứ hai (ông bà, anh em ruột, cháu ruột) của bạn.

Điều 677 BLDS quy định về thừa kế thế vị: “Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.”

Theo đó thừa kế thế vị chỉ áp dụng đối với thừa kế theo pháp luật (không có di chúc hoặc di chúc vô hiệu) và chỉ trong trường hợp cha mẹ để lại di sản cho con. Trong trường hợp của mẹ bạn mất trước bà bạn, phần tài sản đó sẽ được chia theo pháp luật, tức là được chia đều cho những người thừa kế còn lại gồm các con của bà bạn.

Như vậy, từ các phân tích trên, bạn không có quyền được hưởng thừa kế đối với phần di sản của bà bạn để lại, còn đối với phần tài sản của ông bạn để lại, nếu tất cả những người đồng thừa kế thống nhất là tài sản chung chưa chia và khởi kiện yêu cầu Tòa án phân chia tài sản chung thì bạn sẽ là người có quyền đối với phần thừa kế của mẹ bạn từ di sản của ông bạn.

Tư vấn bởi Luật sư Phạm Thị Bích Hảo, Công ty luật TNHH Đức An, Thanh Xuân, Hà Nội.

Bạn đọc muốn gửi các câu hỏi thắc mắc về các vấn đề pháp luật, xin gửi về địa chỉ banbandoc@vietnamnet.vn (Xin ghi rõ địa chỉ, số điện thoại để chúng tôi tiện liên hệ)

Ban Bạn đọc