Muốn làm chủ Biển Đông, chúng ta không thể không "xây dựng một nền kinh tế biển hoàn chỉnh, hữu hiệu".

Kinh tế biển Việt Nam còn quá nhỏ bé

Theo "Nghị quyết về chiến lược biển đến năm 2020" do BCH Trung ương Đảng khóa X đề ra, Việt Nam phải phấn đấu trở thành một quốc gia mạnh về biển, giàu lên vì biển. Mục tiêu là đến năm 2020, kinh tế biển đóng góp khoảng 53% - 55% GDP và 55% - 60% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Tuy nhiên, thống kê của Bộ Kế hoạch và Đầu tư cho biết, quy mô kinh tế biển và vùng ven biển Việt Nam bình quân đạt khoảng 47-48% GDP cả nước; trong đó, GDP của kinh tế thuần biển đạt khoảng 20-22% GDP cả nước.

{keywords}
Ảnh Lê Anh Dũng

Giới nghiên cứu cho rằng, sự phát triển của kinh tế biển Việt Nam còn quá nhỏ bé và yếu kém so với tiềm năng và so với các nước trong khu vực (ví dụ Nhật Bản, Hàn Quốc,...). Bên cạnh đó, Việt Nam cũng phải đối mặt với mâu thuẫn phổ biến giữa phát triển và bảo tồn. Tuy chưa bị xếp vào loại ô nhiễm nghiêm trọng, nhưng biển Việt Nam đang ở giai đoạn báo động và có nguy cơ ô nhiễm cao trong tương lai gần. Điều đó cho thấy, trong phát triển kinh tế biển có nhiều thách thức đang được đặt ra, đòi hỏi phải có chiến lược để phát triển bền vững.

Về khách quan, Việt Nam là một trong 5 nước chịu tác động mạnh nhất của biến đổi khí hậu và nước biển dâng, trước hết là vùng ven biển và các đảo nhỏ. Các hệ sinh thái ven biển, người dân ven biển và trên các đảo là những đối tượng dễ bị tổn thương nhất. Trong khi đó, quá trình phát triển "nóng" đã dẫn đến những bất cập.

Quá trình phát triển hiện nay của kinh tế biển đang đối mặt với nhiều thách thức. Tài nguyên dầu khí và những nguồn tài nguyên biển không tái tạo khác đang bị khai thác quá mức, thiếu tính bền vững. Nguyên nhân xuất phát từ cách tiếp cận "nóng" trong khai thác, không chỉ gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới môi trường, mà còn gây lãng phí và sớm cạn kiệt tài nguyên biển.

Môi trường biển đang xuống cấp

Giáo sư Đặng Hùng Võ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng cho rằng, các vụ việc gây tổn hại môi trường vừa qua đã gióng hồi chuông báo động. Trong khi một số nhà khoa học cho rằng, tiêu chuẩn môi trường của Việt Nam có lẽ chỉ phù hợp với giai đoạn cần thu hút đầu tư trước kia, đã gây bất lợi cho môi trường và các mặt đời sống, xã hội. Đánh giá sơ bộ của Bộ Bộ Tài Nguyên và Môi trường đã chỉ rõ, vùng biển ven bờ các tỉnh Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Quảng Nam, Bà Rịa - Vũng Tàu, TP Hồ Chí Minh mỗi năm tiếp nhận hàng trăm nghìn tấn nước thải hữu cơ (Cod) và hàng chục tấn hóa chất từ thuốc bảo vệ thực vật, kim loại nặng...

Cho rằng đã đến lúc cần gắn kinh tế biển với sự phát triển bền vững, PGS.TS Vũ Thanh Ca, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu biển và Hải đảo đề nghị: "Phát triển kinh tế - xã hội phải gắn với nâng cao mức sống, điều kiện sống người dân, bảo vệ môi trường và các hệ sinh thái biển cho thế hệ mai sau". Cũng theo PGS.TS Vũ Thanh Ca, cần phải rà soát quy định pháp luật hiện hành về đánh giá tác động môi trường của các dự án phát triển có xả thải ra biển, bảo đảm chất thải từ các dự án nằm trong giới hạn tự làm sạch của biển và không gây tác hại đáng kể đến môi trường biển.

Tổng Cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam Nguyễn Thành Minh cho biết, Bộ Tài Nguyên và Môi trường đang xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp lý về quản lý bảo vệ tài nguyên môi trường biển và hải đảo, nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế biển đi đôi với tăng cường khả năng bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia; bảo vệ Bộ Tài Nguyên và Môi trường sinh thái biển; phấn đấu trở thành một nước mạnh về biển, giàu từ biển vào năm 2020. Cùng với việc Luật Tài nguyên, Môi trường biển và Hải đảo có hiệu lực từ ngày 1/7/2016, Bộ Bộ Tài Nguyên và Môi trường đã trình Thủ tướng Chính phủ kế hoạch triển khai "Chiến lược khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên và bảo vệ môi trường biển đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030".

Có thể xem đây là những bước chuyển, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế biển theo hướng hiệu quả, bền vững và có khả năng hội nhập quốc tế, qua đó, bảo đảm an ninh chủ quyền vùng biển.

Hằng Tâm - Hoàng Oanh