{keywords}

Dân tộc Rơ Măm là một trong mười sáu dân tộc rất ít người tại Việt Nam (chỉ cao hơn dân tộc Brâu và Ơ đu). Ở Kon Tum, người Rơ măm có khoảng gần 500 người, tập trung ở làng Le, xã Mô Rai, huyện Sa Thầy (sát biên giới Việt Nam – Campuchia).

Hàng năm, khi công việc thu hoạch lúa rẫy đã xong (khoảng tháng 11-12 dương lịch), khi hạt lúa, hạt bắp, hạt kê đã được đem về cất kỹ, người Rơ Măm chuẩn bị các nghi thức tổ chức lễ hội Mở cửa kho lúa.

{keywords}

Lễ hội chỉ diễn ra trong 3 ngày, nhưng phải chuẩn bị kỹ lưỡng trước đó cả tháng. Già làng xem ngày và thông báo với Giàng về việc làng chuẩn bị làm lễ hội.

Khi ngày giờ đã được ấn định, tất cả gia đình bắt tay vào chuẩn bị rượu, gạo, trâu, bò, heo, gà... Đàn ông "lên dây chiêng", sửa lại đàn; đàn bà con gái khẩn trương rệt nốt những bộ váy áo đẹp cho mình và người thân trong gia đình để kịp mặc trong ngày hội. Thanh niên trai tráng vào rừng tìm cây tre già thẳng ngọn, cây lồ ô giữa bụi để làm cây nêu; những người khác xuống sông ra núi bắt nhiều con cá to, lấy nhiều đọt cây ngọt, mây đắng cho ngày hội thêm nồng...

Khi các bước chuẩn bị đã hoàn tất, già làng (chủ lễ) làm cái lễ nhỏ. Lễ vật là một con gà, một ghè rượu để thông báo với Giàng và xin phép để làng làm cây nêu (loong gung găng). Những người khéo tay được phân công làm cây nêu; những người khác được phân công theo khả năng: đẽo cột, đẽo cây, làm chuỗi dây, đan các hoa văn trang trí hình mặt trời, vào rừng tìm củ, lá rừng để pha màu đen, đỏ, xanh...

Khi làm các công đoạn hoàn tất, cây nêu được trang trí bằng những mảng màu và hoa văn, đường nét duyên dáng, uyển chuyển. Cây nêu được bảo quản trân trọng, bởi theo quan niệm của đồng bào, cây nêu lúc này không còn là cây tre bình thường nữa, mà nó là một vật thiêng, là đường lên xuống-cầu nối, mối liên hệ giữa cộng đồng và thế giới bên trên (Giàng).

Sau đó, các gia đình mang những ghè rượu tới nhà Rông. Già làng làm lễ và thông báo với Giàng về tất cả các bước tiến hành và lễ thức của cộng đồng và công việc tổ chức lễ hội. Khi nghi lễ hoàn tất, mọi người cùng uống rượu lễ tại nhà Rông, và mang ý thiêng từ ngôi nhà chung của cộng đồng về từng gia đình mình để làm lễ.

Tại gia đình, ông chủ nhà đóng vai trò là chủ lễ, tiến hành nghi lễ tại gia. Lễ vật là gà, heo, có khi cả trâu bò và rượu cần. Chủ nhà (chủ lễ) đặt miếng gan của con vật lên tai ghè, gắn một cây nến bằng sáp ong được thắp sáng lên miệng ghè và bắt đầu khấn. Lời khấn: Thông báo với Giàng về việc gia đình sẽ tổ chức lễ Mở cửa kho lúa vào sáng ngày mai; kể tên các lễ vật và ước muốn, cầu xin cho mùa màng tươi tốt, nhiều ngô, lúa và con người, vật nuôi cây trồng không đau ốm bệnh tật, luôn tươi tốt, phát triển...

Các gia đình qua lại thăm hỏi lẫn nhau, uống rượu, ăn thịt và chúc mừng nhau những gì tốt đẹp nhất; thanh niên nam, nữ thì đánh chiêng, chơi đàn và hát, múa tại nhà Rông thâu đêm.

{keywords}
{keywords}

Ngay từ sáng sớm, các gia đình mang lễ vật nào heo, gà, rượu lên rẫy. Đến nơi, đàn bà nhóm lửa, đàn ông chuẩn bị các điều kiện và nghi lễ cần thiết. Ông chủ làm cầu thang cho hồn lúa theo đó bò về nhà, làm thịt heo, gà cắt tiết, gan con vật đặt lên tai ghè, gắn cây nến nhỏ bằng sáp ong được thắp sáng lên miệng ghè và bát đầu cầu khấn:

"Hôm nay gia đình làm lễ Mở cửa kho lúa, chúng tôi đem nào heo, gà, rượu làm lễ vật mời giàng sông suối,Giàng rừng,Giàng nương rẫy, Giàng lúa... cùng chung vui và chứng kiến cho gia đình được mang luá, bắp về dùng và mong cho lúa, bắp trong kho đầy mãi,không bị chuột bọ phá hỏng và cầu mong cho mẹ “lúa” ấp ủ hạt mầm trong kho chờ đợi đến mùa sau nẩy mầm cho cây tươi tốt để được nhiều cái lúa, cái bắp cho dân làng được no cái bụng..."

Chủ nhà khấn xong, lấy rượu trong ghè tưới trước cửa kho lúa, lấy máu con vật hiến sinh vẩy lên cửa kho và mở cửa kho để người đàn bà lấy những gùi lúa đầu tiên. Sau đó, chủ nhà cài cành lá xanh lên cửa kho làm dấu và mọi người gùi lúa về làng.

Cũng trong hôm đầu tiên của mùa lễ hội, Già làng tiến hành nghi lễ cộng đồng tại nhà Rông với sự có mặt của tất cả các chủ gia đình. Khi già làng làm lễ xong, các chủ gia đình lấy ý thiêng từ "Ngọn lửa thần" trên miệng ghè của cộng đồng về nhà mình để nhóm lửa tại từng bếp gia đình và chuẩn bị cho bữa cơm mới đầu năm.

Trong tiếng chày rộn ràng giã gạo nấu cơm, mùi khói bếp, mùi thịt nướng, mùi cơm mới quyện vào nhau thơm lừng, mọi người nói với nhau những điều tốt đẹp nhất. Họ ăn uống vui chơi nhảy múa từ nhà này sang nhà kia trong mối thân thiện kết đoàn, niềm hân hoan được mùa và tình tương thân, tương ái chuẩn bị chờ đón nghi lễ dựng cây nêu, vào buổi chiều.

Già làng đem một ghè rượu ra trước cửa nhà Rông vùa tưới rượu xuống đất, vừa khấn; sau đó, già làng sẽ đào nhất đầu tiên để quy định lễ trồng cây nêu, những thanh niên sẽ hoàn thành độ sâu của hố. Hố đào xong già làng cùng mọi người tưới rượu xuống hố và khấn.

Dưới sự điều khiển của già làng, cây nêu được dựng lên cao vút, uy nghi trước nhà Rông, Những tua bông màu sắc rực rỡ bay trong gió; những hình trang trí đẹp mắt ẩn tàng, chuyên chở những mã số của tâm linh được cộng đồng gửi gắm vào đó càng tạo nên những điều thiêng liêng. Cây nêu thực sự đóng vai trò trung tâm, là linh hồn của cả không gian lễ hội khi già làng trèo lên tận nóc nhà Rông để rước "Giàng nhà Rông" xuống trú ngụ tại "Loong gung găng", để "Giàng nhà Rông" cùng chung vui lễ hội với dân làng.

"Giàng nhà Rông", theo ý niệm của người Rơ Măm thì đây là vị Giàng rất quan trọng, chi phối toàn bộ đời sống con người và sự hưng vong của cả cộng đồng. Giàng nhà Rông vừa vô hình, vừa hữu hình. Cái vô hình là niềm tin, sự tin tưởng, là sức mạnh cộng đồng được thổi vào cái hữu hình là Vật tổ-Tô tem, đó là chiếc ngà voi huyền bí và nhưng hòn đá thiêng được cộng đồng gìn giữ cẩn thận và đặt nơi linh thiêng nhất. Nó đã được chuyển giao qua bao đợi,đang tồn tại và có một sức mạnh siêu nhiên,là chỗ dựa tinh thần của cả cộng đồng.

Vật tổ được đặt cẩn thận lên cây nêu, trong sự chứng kiến kính cẩn và niềm hoan hỷ của dân làng.

Sau đó, già làng và những người cao tuổi dắt con trâu được chọn và nuôi riêng trước đó cả tháng ở cánh rừng vào cột lễ làm vật hiến sinh. Mỗi gia đình mang tối những ghè rượu ngon xếp thành hàng trong không gian lễ hội; các thiếu nữ mang cối, chày và gùi lúa ra sân…

Tiếng cồng chiêng hoà cùng tiếng giã gạo nhịp nhàng của các cô gái tạo ra một bản hoà tấu rộn ràng âm vang cả núi rừng. Khi những gùi gạo đã được làm sạch sẽ, tất cả mọi người trong làng đồng loạt ném những nắm gạo vào con trâu hiến sinh và vừa vung gạo vừa đọc lời khấn.

“Hôm nay, dân làng làm lễ mở cửa kho lúa, chúng tôi có nào trâu, nào gạo, nào rượu để mời Giàng cùng ăn cùng uống, xin Giàng hãy vui lòng nhận lấy và hãy giúp đỡ chúng tôi có nhiều trâu, nhiều lúa nhiều bắp, để dân làng được no đủ, không đau ốm bệnh tật, không bị con ma rừng, ma suối làm hại, cho dân làng đông con nhiều cháu, để làm được cái nương cái rẫy to hơn, cái nhà cao hơn chắc hơn, tất cả là của Giàng đấy, Giàng hãy nhận lấy và đừng làm điều ác với chúng tôi, chúng tôi đã làm đủ các thủ tục với Giàng rồi đó….”

Tiếp đó, mọi người uống rượu cần múa hát, đánh chiêng quanh cây nêu. Những cô gái đem “gạo thiêng” về nhà và tiếp tục nấu bữa cơm tối. 

Đêm đầu tiên của lễ hội, cả làng không ngủ. Xuất phát từ nhà Rông, đội chiêng ghé qua mọi nhà, đánh bài chiêng cầu chúc cho gia đình năm mới mạnh khoẻ và no ấm. Đáp lại, gia đình nào cũng dành cho họ lời chúc và tình cảm nồng nhiệt nhất. Tùy theo mỗi gia đình mà họ có “thưởng”; có khi chỉ là điếu thuốc, củ khoai hay những gì mà gia đình sẵn có… nhưng đó là cả một mỹ tục, phong cách và biểu hiện văn hoá độc đáo của người Rơ Măm.

{keywords}

Ngay khi đội chiêng trở về tới nhà Rông, Lễ hội Đâm trâu bắt đầu.

Tiếng cồng chiêng xen lẫn tiếng hò reo, dân làng lại vung gạo vào con vật hiến sinh và rồi tiếp những ước nguyện của mình, già làng buộc con heo nhỏ vào cây nêu, cắm cần rượu nghi lễ xin phép được giết con trâu cúng giàng: "Hôm nay dân làng làm lễ Mở cửa kho lúa, làng có ăn trâu,đây là con trâu của Giàng, xin Giàng hãy vui lòng nhận lấy và hãy giúp đỡ chúng tôi có nhiều trâu hơn, nhiều lúa nhiều bắp, để dân làng được no đủ...".

Đội chiêng-xoang nối thành vòng tròn lớn, ngược chiều kim đồng hồ quanh cây nêu. Già làng làm những động tác nghi thức, sau đó người thanh niên khỏe mạnh được làng tuyển chọn hoàn thành công việc thiêng liêng của cộng đồng. Con vật hiến sinh ngã xuống trong tiếng hò vang của dân làng, không khí lễ hội lúc này lên tới đỉnh điểm, niềm hoan hỉ của dân làng khi đã cảm thấy được Giàng chứng giám. Già làng cắt tiết heo hòa lẫn tiết trâu vẩy lên cột lễ. Nghi thức và hành động đâm trâu hoàn tất, người ta phân công nhau làm thịt trâu.

Đầu tiên, đầu trâu được treo lên cột lễ trước khi xẻ thịt chế biến các món ăn cho cả làng, những cô gái hối hả nấu cơm lam...

Cả ngày hôm ấy dân làng ăn uống tại nhà Rông. Lúc đầu là hành động ăn thiêng, uống thiêng- ăn uống cùng Giàng, ăn uống là hành động truyền giao phép nhiệm màu, là sức mạnh là niềm tin tưởng giữa con người với đấng siêu nhiên, sự cộng cảm giữa cá nhân và cộng đồng, sự lây lan tâm lý tình cảm, để người ta thăng hoa, người ta xích lại gần lại gần nhau... người già thì hồi tưởng lại quãng đời oanh liệt và vất vả của bản thân và cộng đồng, những người khác thì bàn bạc trao đổi việc phát nương rẫy, người có khả năng nổi trội thì có cơ hội thể hiện tài nghệ ứng tác và trình diễn nghệ thuật và đặc biệt đây là môi trường để trai gái gần gũi hẹn ước...

{keywords}

Ngày thứ ba cũng còn được gọi là ngày ăn đầu trâu, già làng làm lễ hạ Giàng. Đám rước Giàng và đầu trâu lên nhà Rông, già làng làm lễ tại nhà Rông.

Một nghi thức rất quan trọng được già làng tiến hành một cách cẩn thận là Lễ rửa Giàng.

Người ta lấy rượu ghè pha với các loại lá rừng, thành một thứ nước màu, có mùi thơm để rửa vật tổ một cách cẩn thận vào giỏ và gắn cây nến nhỏ làm bằng sáp ong được thắp sáng lên miệng giỏ và bắt đầu lời khấn: "Hôm nay làng đã làm xong lễ Mở cửa kho lúa, chúng tôi đã mời Giàng cùng chung vui, tất cả mọi thứ nào trâu, nào rượu Giàng đã được thưởng thức cùng chúng tôi, bây giờ thịt đã hết, rượu đã cạn, chúng tôi mời Giàng lên nóc nhà Rông và ở yên đó đừng bỏ đi, và làm cho dân làng được nhiều lúa ở vụ sau, dân làng không đau ốm dịch bệnh, chúng tôi cảm ơn Giàng và sang năm làng lại tiếp tục làm lễ mời Giàng cùng tham dự..”

Già làng đặt Giàng lên đúng vị trí trang trọng nhất trên nóc nhà Rông trong niềm vui mãn nguyện của lòng thành đã được chứng giám. Người ta cảm thấy được trút bỏ, cởi mở hết những băn khoăn trăn trở của đời sống khó khăn, của thiên nhiên khắc nghiệt. 

Khi những bầu nước được các thiếu nữ gùi về từ giọt nước đầu làng, họ té nước vào nhau, càng nhiều càng may mắn, từ già làng đến con trẻ đều háo hức đón những dòng nước mát, giọt nước của may mắn, mạnh khỏe và yên vui. Người ta cảm thấy như được gột rửa toàn bộ những phàm tục của đời thường, những gian khổ và tội lỗi được tẩy trần; người ta hoan hỉ và rủ nhau ra suối tắm giặt thỏa thuê và trở về nhà trong niềm thanh thản tinh khiết của cuộc sống tương lai cho năm mới bắt đầu.

{keywords}

Lễ hội Mở kho lúa là một trong những lễ hội lớn nhất của người Rơ Măm, đánh dấu sự hoàn tất một chu trình sản xuất nông nghiệp khô, trong một hoàn cảnh sống đặc biệt, gắn với thiên nhiên khắc nghiệt và núi rừng mênh mông vô tận.

Đây là một lễ thức để tạ ơn trời đất, tạ ơn các vị Giàng đầy huyền bí đã trợ giúp cho con người có được mùa màng bội thu, một niềm tin tất yếu, một mối quan hệ thân thiện, vừa gần vừa xa, nhưng rất sòng phẳng giữa con người với đấng siêu nhiên. 

Kiều Oanh
Ảnh: Bích Hạnh
Video: Tuyết Nhung, Vũ Phong, Văn Minh

Số hoá dữ liệu Dân tộc, Tôn giáo

03/12/2021 03:58