Cuộc khủng hoảng tị nạn mới đây ở châu Âu một lần nữa lại làm dấy lên cuộc tranh luận về vấn đề di cư, liệu việc chấp nhận người nhập cư từ các quốc gia đói nghèo hoặc bị chiến tranh tàn phá có phải là một việc cần làm vì phạm trù đạo đức hay không.

{keywords}

Trong khi đó, các nhà kinh tế vẫn tiếp tục tìm hiểu về vấn đề di cư ở khía cạnh nó tác động đến nền kinh tế toàn cầu như thế nào. Một vấn đề khác cũng rất được quan tâm, là những người di cư – đặc biệt là những người được đánh giá thuộc tầng lớp tinh hoa – có đang làm xói mòn vốn con người của dân tộc họ hay không (hay còn gọi là “chảy máu chất xám”)? Hay là di cư lại làm tăng vốn xã hội, theo hình thức mang lại những mối quan hệ có giá trị với cộng đồng người hải ngoại?

Nghi vấn này nhận được nhiều đồng thuận từ các nhà hoạch định chính sách và các tổ chức quốc tế. Hiện nay, đã có hàng chục quốc gia thành lập những cơ quan thuộc Bộ hoặc Chính phủ hoặc các tổ chức chính thức dành riêng cho cộng đồng hải ngoại.

Do tầm quan trọng của tăng trưởng kinh tế ngày một tăng và số lượng người tài ở hải ngoại cũng ngày một tăng, nên sự đóng góp về mặt tri thức và đổi mới của cộng đồng hải ngoại cũng ngày càng được chú ý hơn.

Tuy nhiên, một số câu hỏi mở vẫn còn bỏ ngỏ. Ví dụ như, liệu những phát hiện tích cực đối với bộ phận người nhập cư Mỹ từ Trung Quốc và Ấn Độ có thể được tổng quát cho các quốc gia khác hay không? Trong một bài viết gần đây, chúng tôi đã thu thập và phân tích mạng lưới người nhập cư và vai trò của họ trong việc phổ biến kiến thức công nghệ cả ở Mỹ và cả ở quê hương họ.

Chúng tôi đã sử dụng các dữ liệu về bằng sáng chế, trích dẫn và phát minh từ các hồ sơ gửi tới Văn phòng Sáng chế châu Âu (EPO) để xem xét tầm quan trọng của những tác động liên quan tới người di cư.

Thu hoạch chất xám

Hệ thống nghiên cứu của Mỹ từ lâu đã là điểm đến hấp dẫn cho cả các nhà khoa học và các kỹ sư nước ngoài. Các trường đại học đóng vai trò quan trọng trong việc khuyến khích sinh viên và nghiên cứu sinh sau tiến sĩ đổ về nước Mỹ. Người nhập cư chiếm khoảng 25% các ngành khoa học và kỹ thuật ở Mỹ, chiếm 26% số người đạt giải Nobel ở Mỹ và chiếm khoảng 12% toàn bộ lực lượng lao động Mỹ.

Nếu mối quan hệ giữa những người nhập cư gắn kết chặt chẽ, họ sẽ tạo nên một cộng đồng hải ngoại có khả năng truyền tải kiến thức hiệu quả hơn là việc tập hợp một số cá nhân nhỏ lẻ.

“Hiệu ứng cộng đồng hải ngoại” tồn tại khi các nhà sáng chế nhập cư tới từ cùng một quốc gia có xu hướng trích dẫn sáng chế của những người ở cùng quốc gia cao hơn so với những sáng chế của người nhập cư tới từ quốc gia khác.

Bên cạnh đó, các nhà khoa học và kỹ sư nhập cư có thể giữ liên lạc với các hiệp hội nghề nghiệp và cơ sở giáo dục ở quê nhà, đồng thời truyền đạt lại các kỹ năng công nghệ và khoa học trên tinh thần thân thiện hoặc theo hợp đồng.

Hiệu ứng “thu hoạch chất xám” tồn tại nếu sáng chế của người nhập cư Mỹ được trích dẫn không tương xứng bởi các nhà sáng chế đang hoạt động ở quê hương họ.

Dữ liệu của Cơ quan Sở hữu trí tuệ thế giới cho thấy, bên cạnh Trung Quốc và Ấn Độ, các nhà phát minh nhập cư chủ yếu tới từ các quốc gia phát triển như Đức, Anh, Canada, Mỹ, Italy và Hàn Quốc. Theo sát đó là Nga, Nhật, Thụy Điển, Israel, Thụy Sỹ, Iran và Mexico.

Bảng 1: Tỷ lệ các nhà phát minh nhập cư tới Mỹ trong hồ sơ gửi đến Văn phòng Sáng chế châu Âu

{keywords}

Ai tạo nên cộng đồng hải ngoại?

Chúng tôi tìm thấy những bằng chứng về hiệu ứng cộng đồng hải ngoại tồn tại ở hầu hết các quốc gia châu Á: Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc và Nhật Bản, và một quốc gia châu Âu là Nga.

Bảng 2: Tỷ lệ trích dẫn

Bảng A:… nếu cả 2 nhà sáng chế đều định cư ở Mỹ và tới từ:

{keywords}

Bảng B: …nếu một nhà sáng chế người nước ngoài định cư ở Mỹ, còn người kia định cư ở:

{keywords}

Lưu ý: Các thanh màu xám chỉ hệ số không đáng kể.

Ấn Độ thu hoạch được gì từ nhân tài hải ngoại?

Nói tới hiệu ứng “thu hoạch chất xám”, chúng tôi chỉ quan sát hiện tượng này ở 2 quốc gia mới nổi là Trung Quốc, Nga cùng với Hàn Quốc. Điều này có thể nhìn thấy ở bảng B: sự gia tăng tỷ lệ trích dẫn giữa 2 bằng sáng chế, trong đó một phát minh là của nhà sáng chế người nước ngoài định cư ở Mỹ, một sáng chế là của nhà khoa học định cư ở quê hương. Nga có mức tăng rất lớn – khoảng 14%, Hàn Quốc – khoảng 10% và Trung Quốc – khoảng 4%, trong khi ở các quốc gia khác con số này không đáng kể.

Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng chỉ ra vai trò của đa quốc gia trong việc chuyển giao kiến thức (các trích dẫn) trên khắp nước Mỹ và quê hương của các nhà sáng chế hải ngoại. Hiệu ứng này đặc biệt quan trọng với các quốc gia tiên tiến như Pháp, Ý và Nhật Bản. Còn với các quốc gia có nền kinh tế mới nổi, chúng tôi quan sát thấy rằng số nhà sáng chế hải ngoại có thể lớn hơn nhiều so với số nhà sáng chế trong nước. Điều này mở ra khả năng có thể có một hiệu ứng “cộng đồng hải ngoại quốc tế”, trong đó các nhà sáng chế cùng quê hiện đang định cư ở các quốc gia khác nhau có tỷ lệ trích dẫn trung bình của nhau cao hơn. Riêng với Ấn Độ, tỷ lệ trích dẫn của nhau không đáng kể có thể phần lớn là do vấn đề về tiếp thu kiến thức, chứ không phải là do khả năng chuyển giao kiến thức hạn chế của cộng đồng hải ngoại.

Kết luận

Mối quan hệ trong cộng đồng hải ngoại và hiệu ứng “thu hoạch chất xám” ở mỗi quốc gia là khác nhau. Ở các quốc gia như Trung Quốc, Nga và Hàn Quốc, những yếu tố này có vẻ mạnh hơn, trong khi Ấn Độ có vẻ yếu hơn và với các quốc gia Tây Âu là không cần thiết.

Bài viết của 3 tác giả: Stefano Breschi – giáo sư Kinh tế ứng dụng, phó giám đốc Trung tâm Nghiên cứu về đổi mới, tổ chức và chiến lược thuộc ĐH Commerciale L. Bocconi, Francesco Lissoni - giáo sư Kinh tế, ĐH Bordeaux, Ernest Miguelez – nghiên cứu viên tại Trung tâm Nghiên cứu khoa học Pháp (CNRS), ĐH Bordeaux.

  • Nguyễn Thảo (Lược dịch)

Xem thêm: