Tới nay, Việt Nam đã có 69 nhà máy điện gió với tổng công suất hơn 3.298 MW kịp vận hành thương mại (COD) toàn bộ hoặc một phần để hưởng giá FIT ưu đãi 8,5 cent một kWh trong 20 năm. Cùng 15 dự án đã COD trước đó, tổng cộng có 84 dự án kịp hưởng giá FIT, với tổng công suất gần 4.000 MW "hoà lưới" vào hệ thống điện.

Báo cáo của Hội đồng Điện gió Toàn cầu (GWEC), hợp tác với Nhóm Tham vấn Năng lượng tái tạo công bố ngày hôm 23/7, cho thấy Việt Nam đang đứng trước một giai đoạn quan trọng trong hoạt động quy hoạch hệ thống năng lượng, và có cơ hội hành động ngay bây giờ để đẩy nhanh việc triển khai điện gió ngoài khơi trong thập kỷ này.

Báo cáo nhấn mạnh, với tiềm năng tài nguyên nằm trong top đầu thế giới và nhu cầu điện gia tăng nhanh chóng, Việt Nam sẵn sàng trở thành quốc gia dẫn đầu về điện gió ngoài khơi tại khu vực Đông Nam Á trong thập kỷ tới. Nhưng các dự án điện gió ngoài khơi quy mô lớn thực sự sẽ không được kết nối vào lưới điện quốc gia, sớm nhất là cho đến năm 2026, và Việt Nam cần phải giải quyết một số vướng mắc trong chính sách và quy định để bảo vệ, phát triển các dự án đầu tư.

{keywords}
Việt Nam đang đứng trước một giai đoạn quan trọng trong hoạt động quy hoạch hệ thống năng lượng, và có cơ hội hành động ngay bây giờ để đẩy nhanh việc triển khai điện gió ngoài khơi.

Trong đó, cơ chế biểu giá điện FIT hiện tại sẽ hết hiệu lực vào tháng 11/2021 và mục tiêu công suất điện gió ngoài khơi hiện tại là 2 GW vào năm 2030 trong dự thảo Quy hoạch Điện 8 - mà theo báo cáo, mục tiêu này có thể được nâng lên 10 GW đến năm 2030 để tối đa hóa lợi ích xã hội, kinh tế và môi trường từ điện gió ngoài khơi. Quy hoạch Điện 8 có thể sẽ được phê duyệt và hoàn thiện vào cuối năm nay.

Giám đốc GWEC khu vực châu Á khuyến nghị Việt Nam khẩn trương áp dụng giai đoạn chuyển đổi đối với điện gió ngoài khơi, đồng thời kết hợp với một quá trình tham vấn có hệ thống và cởi mở về mua bán và đấu giá điện trong tương lai. Chỉ còn chưa đầy 10 năm để đạt được các mục tiêu của Quy hoạch Điện 8 vào năm 2030, bây giờ là thời điểm để bắt đầu quá trình tham vấn rộng rãi hơn và xem xét nâng tham vọng lên 10 GW vào năm 2030. Chúng tôi hy vọng báo cáo này sẽ hỗ trợ Việt Nam trong giai đoạn quan trọng này, để biến điện gió ngoài khơi trở thành trụ cột trong hệ thống điện trong tương lai.

Báo cáo rút ra bài học kinh nghiệm của sáu khu vực địa lý trong việc chuyển đổi từ cơ chế hỗ trợ điện gió ngoài khơi sang cơ chế cạnh tranh, bao gồm: Đan Mạch, Đức, Anh, Hà Lan, Pháp và Đài Loan (Trung Quốc). Mỗi nghiên cứu cụ thể phác thảo các khuôn khổ chính sách được áp dụng để định hướng quá trình chuyển đổi, thời gian của các chương trình mua bán khác nhau và ảnh hưởng của chúng tới công suất lắp đặt trên thị trường điện gió ngoài khơi.

Báo cáo cũng đưa ra một số khuyến nghị một giai đoạn chuyển đổi trong vài năm tới, trong đó cơ chế biểu giá FIT cho điện gió ngoài khơi được đặt ra để áp dụng cho 4-5 GW điện gió ngoài khơi đầu tiên ở Việt Nam, song song với đó là việc Chính phủ sẽ tiến hành nghiên cứu kỹ thuật về thiết kế đấu giá. Các cuộc đấu giá có thể sẽ được công bố, sớm nhất vào năm 2024 theo mô hình chuyển đổi này.

Ngoài các nghiên cứu cụ thể và khuyến nghị toàn cầu cho Việt Nam, báo cáo cũng cung cấp kết quả phỏng vấn các bên liên quan trong Chính phủ, nhà đầu tư, các ngành công nghiệp và cộng đồng ngư dân. Các cuộc phỏng vấn này phản ánh sự đồng thuận mạnh mẽ rằng, cần có sự rõ ràng về chính sách và tham vấn nhiều bên liên quan để tăng cường hoạch định chính sách điện gió ngoài khơi ở Việt Nam.

Dự báo kế hoạch chuyển đổi đưa ra khả năng ít nhất 4 - 5 GW điện gió ngoài khơi sẽ được kết nối vào lưới điện ở Việt Nam vào năm 2030, nhưng công suất tiềm năng hơn còn tùy thuộc vào kế hoạch đấu giá và các mục tiêu đặt ra trong Quy hoạch Điện 8 cũng như các chính sách khác.

Diệu Bình