Ngày 21/6/2012, Quốc hội thông qua Luật Biển Việt Nam. Tại Điều 45 Luật đã quy định về việc giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển và giao Chính phủ quy định chi tiết về vấn đề này. Thực hiện nhiệm vụ Quốc hội giao, ngày 21/5/2014 Chính phủ ban hành Nghị định số 51/2014/NĐ-CP quy định việc giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng tài nguyên biển.

Sau 4 năm triển khai thi hành Nghị định số 51/2014/NĐ-CP, công tác quản lý nhà nước về giao khu vực biển, khai thác, sử dụng tài nguyên biển đã có những bước tiến triển nhất định, bước đầu đạt được những kết quả đáng khích lệ; tăng cường hiệu quả công tác quản lý nhà nước, nâng cao trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức và cá nhân trong quản lý, khai thác, sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường biển, hải đảo.

{keywords}
Chính phủ ban hành Quy định mới về việc giao các khu vực biển nhất định cho tổ chức, cá nhân khai thác, sử dụng. Ảnh minh họa.

Tuy nhiên, Nghị định này vẫn còn bộc lộ một số hạn chế và bất cập. Một số quy định trong Nghị định số 51/2014/NĐ-CP còn chung chung, chưa phù hợp với yêu cầu của thực tiễn, một số quy định chưa được thực hiện triệt để do còn vận dụng quy định của pháp luật chuyên ngành. Mặt khác, ngày 21/11/2017, Quốc hội thông qua Luật Thủy sản, tại Điều 44 Luật quy định về việc giao khu vực biển để nuôi trồng thủy sản và giao cho Chính phủ quy định việc giao, gia hạn, hạn mức, khung giá tiền sử dụng khu vực biển; sửa đổi, bổ sung quyết định giao khu vực biển để nuôi trồng thủy sản.

Để khắc phục những tồn tại, hạn chế, bất cập nêu trên và kịp thời cập nhật, bổ sung các quy định cho phù hợp với Luật thủy sản nhằm tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý nhà nước tổng hợp và thống nhất nhà nước về sử dụng biển, đồng thời từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực biển và hải đảo, việc xây dựng và ban hành Nghị định thay thế Nghị định số 51/2014/NĐ-CP

Theo Nghị định số 11/2021/NĐ-CP chính phủ mới ban hành, việc giao các khu vực biển nhất định từ đường mép nước biển thấp nhất trung bình trong nhiều năm ra đến hết các vùng biển Việt Nam cho tổ chức, cá nhân để khai thác, sử dụng tài nguyên biển theo văn bản cho phép khai thác, sử dụng tài nguyên biển của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp cho tổ chức, cá nhân theo quy định của pháp luật.

Về thời hạn giao khu vực biển, Nghị định quy định đối với dự án đầu tư đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền chấp thuận hoặc quyết định chủ trương đầu tư, cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư mà có thời hạn đầu tư trên 30 năm thì thời hạn giao khu vực biển được xem xét, quyết định trên 30 năm nhưng không vượt quá thời hạn đầu tư ghi trên văn bản chấp thuận hoặc quyết định chủ trương đầu tư, Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư, Giấy chứng nhận đầu tư (trừ dự án đầu tư nuôi trồng thủy sản trên biển). Trừ trường hợp trên, thời hạn giao khu vực biển được xem xét, quyết định đối với từng trường hợp cụ thể trên cơ sở đơn đề nghị giao khu vực biển, dự án đầu tư, thời hạn ghi trên văn bản cho phép khai thác, sử dụng tài nguyên biển của cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng không quá 30 năm. Thời hạn giao khu vực biển có thể được gia hạn nhiều lần nhưng tổng thời gian của các lần gia hạn không quá 20 năm.

Nghị định cũng nêu rõ trường hợp thời hạn giao khu vực biển quy định ở trên đã hết, tổ chức, cá nhân có nhu cầu tiếp tục sử dụng khu vực biển thì được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét tiếp tục giao khu vực biển theo quy định nếu đáp ứng các điều kiện sau: Văn bản cho phép khai thác, sử dụng tài nguyên biển còn hiệu lực; việc sử dụng khu vực biển vẫn bảo đảm phù hợp với quy hoạch theo quy định. Thời hạn công nhận khu vực biển cho tổ chức, cá nhân bằng với thời hạn còn lại trong quyết định giao đất, hợp đồng cho thuê đất có mặt nước ven biển, mặt nước biển của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã cấp trước đó. Thời hạn giao khu vực biển để lấn biển được xem xét trên cơ sở kế hoạch lấn biển của dự án đầu tư đã được phê duyệt. Tổ chức, cá nhân được giao khu vực biển để lấn biển thực hiện dự án đầu tư thì được tiếp tục sử dụng diện tích đất hình thành sau khi lấn biển theo quy định của pháp luật về đất đai.

Về quyền, nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân được giao khu vực biển, Nghị định nêu rõ, tổ chức, cá nhân được giao khu vực biển có các quyền sau: Sử dụng khu vực biển để khai thác, sử dụng tài nguyên biển theo Quyết định giao khu vực biển; được xem xét gia hạn, sửa đổi, bổ sung Quyết định giao khu vực biển, trả lại khu vực biển; được sử dụng các thông tin, dữ liệu liên quan đến khu vực biển được giao theo quy định của pháp luật; được xem xét bồi thường khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu hồi khu vực biển để sử dụng phục vụ mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, công cộng theo quy định của pháp luật; khiếu nại, khởi kiện khi quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân được giao khu vực biển bị xâm phạm và các quyền khác theo quy định của pháp luật.

Ngọc Dũng