GRDP năm 2020 ước tăng 9,58%

Tổng sản phẩm trong Tỉnh (GRDP) năm 2020 tăng 9,58% so với năm trước, là mức tăng cao thứ tư trong giai đoạn 2011-2020 (năm 2019 tăng 13,99%; năm 2017 tăng 9,96% và năm 2014 tăng 9,96%), và cũng là mức tăng trưởng cao thứ tư toàn quốc (dưới Bắc Giang 13,02%; Hải Phòng 11,22%; Quảng Ninh 10,05%).

Kinh tế - xã hội năm 2020 diễn ra trong bối cảnh dịch viêm đường hô hấp cấp do chủng mới của vi rút Corona (Covid-19) bùng phát mạnh trên phạm vi toàn cầu đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến mọi mặt kinh tế - xã hội của các quốc gia trên thế giới. Các nền kinh tế lớn đối mặt với tình trạng suy thoái sâu, tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ qua. Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung diễn biến khó lường. Trong nước, bên cạnh những thuận lợi từ kết quả tăng trưởng tích cực năm 2019, kinh tế vĩ mô ổn định nhưng phải đối mặt với rất nhiều khó khăn, thách thức. Dịch Covid-19 diễn biến phức tạp làm tăng trưởng ở hầu hết các ngành, lĩnh vực chậm lại.

{keywords}
Tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Thuận năm 2020 qua con số thống kê.

Trong tỉnh, triển khai nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội bước vào năm 2020 gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhất là “khó khăn kép” vừa bị hạn hán gay gắt, vừa bị tác động của đại dịch Covid-19 đã ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống kinh tế - xã hội của Tỉnh.

Trước tình hình đó, quán triệt phương châm hành động “Kỷ cương, liêm chính, hành động, trách nhiệm, sáng tạo, hiệu quả”, UBND tỉnh đã bám sát và triển khai quán triệt kịp thời Nghị quyết 01/NQ-CP của Chính phủ và các nghị quyết của Tỉnh ủy, HĐND tỉnh và ban hành Quyết định số 08/QĐ-UBND ngày 08/01/2020 triển khai thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 và Nghị quyết số 115/NQ-CP của Chính phủ về cơ chế chính sách đặc thù hỗ trợ tỉnh giai đoạn 2018-2023 đồng thời chủ động triển khai đồng bộ nhiều giải pháp, quyết liệt, kịp thời thực hiện “mục tiêu kép”, vừa bảo đảm mục tiêu phòng chống đại dịch Covid-19 và ứng phó hiệu quả hạn hán, vừa bảo đảm mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.

Tổng sản phẩm trong Tỉnh (GRDP) năm 2020 ước tăng 9,58% so với năm 2019; trong đó: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 0,67%, đóng góp 0,22 điểm phần trăm vào mức tăng trưởng chung; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 37,21%, đóng góp 8,73 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ tăng 2,08%, đóng góp 0,76 điểm phần trăm. Động lực chính cho tăng trưởng kinh tế năm 2020 là công nghiệp sản xuất và phân phối điện (tăng 129,93%) và ngành xây dựng (tăng 15,46%).

Về cơ cấu kinh tế (GRDP) năm 2020, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm tỷ trọng 30,9%; khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm 31 %; khu vực dịch vụ chiếm 31,9%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 6,2%. (Cơ cấu tương ứng của cùng kỳ năm 2019 là: 33,3%; 24,9%; 34,8%; 7%).

Tăng trưởng của công nghiệp đạt 58,18%

Ngành công nghiệp năm 2020 duy trì tăng trưởng cao với tốc độ tăng giá trị tăng thêm so với năm trước đạt 58,18%, trong đó công nghiệp sản xuất và phân phối điện giữ vai trò chủ chốt dẫn dắt mức tăng trưởng chung của ngành công nghiệp và toàn nền kinh tế (tăng 129,93%); khai khoáng tăng cao 36,88% nhờ khai thác muối biển tăng mạnh, bù đắp cho sự sụt giảm của các sản phẩm khác trong nhóm.

Tăng trưởng của công nghiệp năm 2020 đạt 58,18% so với năm trước (6 tháng đầu năm tăng 94,85%; 6 tháng cuối năm tăng 29,17%). Trong đó, công nghiệp sản xuất và phân phối điện tiếp tục là điểm sáng của toàn ngành với mức tăng 129,93% (6 tháng đầu năm tăng 237,7%; 6 tháng cuối năm tăng 59,56%), đóng góp đóng góp 6,81 điểm phần trăm; ngành khai khoáng tăng 36,88%, đóng góp 0,38 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước và xử lý rác thải, nước thải tăng 8,83%, đóng góp 0,05 điểm phần trăm; ngành chế biến, chế tạo giảm 5,77% (giảm liên tiếp hai năm)[1] do bia đóng lon giảm 34,1% so với năm trước và các sản phẩm khác trong nhóm giảm, đóng góp giảm 0,29 điểm phần trăm vào mức tăng chung.

Một số sản phẩm công nghiệp chủ yếu năm nay tăng cao so với năm trước: Điện mặt trời tăng 147,8%; Điện gió tăng 58,5%; Muối biển tăng 60,6%; Xi măng Portland đen tăng 29,1%; Tinh bột khác tăng 24,7%; Nước máy thương phẩm tăng 11,2%. Tôm đông lạnh tăng 9,4%.

Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo: Chỉ số sản xuất giảm 6,67% so với năm 2019; Chỉ số tiêu thụ toàn ngành giảm 8,05%; Chỉ số tồn kho tăng 13,73% so với cùng thời điểm năm trước; và Chỉ số sử dụng lao động giảm 0,31%.

Hoạt động ngành công nghiệp tiếp tục duy trì mức tăng trưởng cao, nhiều dự án điện gió, điện mặt trời đẩy nhanh tiến độ hoàn thành, dự án điện mặt trời 450 MW kết hợp đầu tư hạ tầng truyền tải 500 kV và các dự án hạ tầng truyền tải khác được tập trung đầu tư hoàn thành, đã tạo đột phá trong giải quyết giảm phát các dự án năng lượng trên địa bàn tỉnh; sản lượng điện sản xuất năm 2020 ước đạt 4.589 triệu kWh, tăng 65,5% so cùng kỳ. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của dịch Covid-19 các nhóm ngành công nghiệp chế biến, chế tạo giảm đã hạn chế tốc độ tăng trưởng.

Diện tích rừng trồng mới tập trung ước tính đạt 422 ha

Sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2020 gặp nhiều khó khăn do tác động của hạn hán và mưa lũ; dịch Covid-19 trên thế giới diễn biến phức tạp gây ảnh hưởng đến sản xuất và tiêu thụ nông sản. Trước những khó khăn đó, ngành Nông nghiệp đã có nhiều giải pháp ứng phó kịp thời, hiệu quả nên kết quả sản xuất đạt khá, lúa Đông xuân và Hè thu tuy diện tích giảm nhưng được mùa, được giá; sản lượng các loại cây lâu năm có mức tăng trưởng khá; chăn nuôi phát triển ổn định; sản xuất giống thủy sản tăng trưởng mạnh.

Diện tích gieo trồng cây hàng năm năm 2020 đạt 68.600 ha, giảm 16,6% so năm 2019. Trong đó: Cây lúa đạt 32.508,4 ha, giảm 26,7%; năng suất ước đạt 61,7 tạ/ha, tăng 2,4 tạ/ha; sản lượng 200,7 nghìn tấn, giảm 23,6%. Cây ngô và cây lương thực khác 10.601,8 ha, giảm 5,9%; Cây lấy củ có chất bột 5.377,8 ha, tăng 13,3%, tăng mạnh 16% ở diện tích trồng sắn do sắn là cây chịu hạn tốt, được hộ dân trồng chuyển đổi thay thế trên nền những cây trồng chịu hạn; Cây mía 2.346,9 ha, giảm 34,1%, do nguồn đầu ra không ổn định, giá mía một vài năm gần đây bấp bênh, các hộ dân phá gốc và trồng thay thế các cây có giá trị kinh tế hơn; Cây thuốc lá thực hiện 52 ha, tăng 15,6%; Cây có hạt chứa dầu 1.044,2 ha, giảm 4,6%, chủ yếu là cây đậu phộng thực hiện 859,9 ha, tăng 5,1%; Cây rau đậu, hoa cây cảnh 11.939,3 ha, giảm 5,9%; Cây hằng năm khác thực hiện 4.726,6 ha, tăng 4,5%, trong đó, cây ớt ước đạt 648,5 ha, giảm 8,4%; Cây cỏ voi 3.436,3 ha, tăng 2,1%, tăng diện tích cỏ trồng phù hợp để phát triển chăn nuôi gia súc.

Sản lượng một số cây lâu năm chủ yếu năm 2020 tăng so với năm trước: Nho đạt 26,3 nghìn tấn, tăng 3,8%; Táo 36,2 nghìn tấn. tăng 2,7%; Xoài 4,7 nghìn tấn, tăng 22,5%; Chuối 16,6 nghìn tấn, tăng 0,2%; Bưởi 0,88 nghìn tấn, tăng 33,5%; Điều 1,1 nghìn tấn, tăng 6,3%.

Năm 2020, diện tích rừng trồng mới tập trung cả tỉnh ước tính đạt 422 ha, tăng 5,1% so với năm 2019 (quý IV đạt 342 ha, giảm 2,7%); sản lượng gỗ khai thác đạt 2,3 nghìn m3, tăng 2,1%; sản lượng củi khai thác đạt hơn 16,2 nghìn ste, tăng 2%.

Diện tích rừng bị thiệt hại năm 2020, diện tích rừng bị thiệt hại là 15,9 ha, giảm 31,7% so với năm 2019 (quý IV/2020 là 9,8 ha, giảm 20,6%), toànbộ là diện tích rừng bị chặt, phá.

Tổng sản lượng thủy sản năm 2020 ước đạt 128,4 nghìn tấn, tăng 3,3% so với năm 2019 (quý IV đạt 12,9 nghìn tấn, giảm 12,1%), bao gồm cá đạt 114,7 nghìn tấn, tăng 3,9%; tôm đạt 6,6 nghìn tấn, giảm 11%; thủy sản khác đạt 7,2 nghìn tấn, tăng 8,8%.

Sản lượng thủy sản nuôi trồng năm 2020 đạt 9,7 nghìn tấn, giảm 9,6% so với năm trước (quý IV đạt 2,2 nghìn tấn, giảm 8,2%), bao gồm cá đạt 0,2 nghìn tấn, tăng 18,3%; tôm đạt 1,4 nghìn tấn, giảm 21,3%; thủy sản khác đạt 0,6 nghìn tấn, tăng 39,6%.

Sản lượng thủy sản khai thác năm ước tính đạt 118,7 nghìn tấn, tăng 4,5% so với năm trước (quý IV đạt 10,7 nghìn tấn, giảm 12,8%), bao gồm cá đạt 9,5 nghìn tấn, giảm 15%; tôm đạt 0,2 nghìn tấn, tăng 8%; thủy sản khác đạt 1 nghìn tấn, tăng 11,1%.

Lan Anh