Việt Nam là một trong những nước đầu tiên kí công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em và công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ.

Quyền trẻ em và quyền phụ nữ là một trong những vấn đề được Nhà nước đặt cao nhất và chúng ta cũng luôn nỗ lực không ngừng để thực thi quyền này tại Việt Nam.

Trong buổi giao lưu hôm nay các khách mời sẽ cùng VietNamNet giải đáp những thắc mắc của độc giả liên quan đến vấn đề này.

Trân trọng giới thiệu hai khách mời: Bà Nguyễn Thị Thanh Hòa, Chủ tịch Hội bảo vệ trẻ em, nguyên Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và ông Đặng Hoa Nam, Cục trưởng Cục trẻ em, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội.

Nhà báo Ngọc Trang: Để mở đầu buổi giao lưu, chúng tôi xin gửi câu hỏi của một độc giả đến từ Đà Nẵng dành cho bà Nguyễn Thị Thanh Hòa. Xin bà cho biết công tác đảm bảo quyền phụ nữ những năm gần đây tiến triển ra sao?

Bà Nguyễn Thị Thanh Hòa: Trước hết có thể nói, Đảng và Nhà nước rất quan tâm đến công tác phụ nữ và đặt ra mục tiêu phấn đấu để đạt mục tiêu bình đẳng giới cũng như mục tiêu vì sự tiến bộ của phụ nữ.

Trong những năm gần đây, công tác này được đặc biệt quan tâm và đã đạt được những kết quả tích cực.

Chúng ta có Nghị quyết 11 của Bộ chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Chỉ thị số 21 của Ban bí thư Trung ương Đảng, rồi Luật Bình đẳng giới, Chiến lược quốc gia về Bình đẳng giới và đặc biệt là Hiến pháp 2013 có điều 26 quy định rất rõ công dân nam nữ là bình đẳng về mọi mặt.

Có thể nói lần đầu tiên khái niệm bình đẳng giới và giới cũng đã đưa vào trong Hiến pháp, văn bản pháp luật cao nhất của đất nước.

Trên cơ sở các chỉ đạo và văn bản chính sách pháp luật đó, kết quả đạt được của chúng ta cũng rất đáng mừng.

{keywords}
Bà Nguyễn Thị Thanh Hòa, Chủ tịch Hội bảo vệ trẻ em, nguyên Chủ tịch Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam

Trước hết, tỷ lệ phụ nữ tham gia lực lượng lao động ở Việt Nam khá đông, cao hơn nhiều so với bình quân chung 49% của thế giới.

Thứ hai, về tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội, sau hai nhiệm kỳ 12, 13 chúng ta giảm thì đến nhiệm kỳ 14 đã tăng lên 26,72%. Đây cũng là tỷ lệ rất cao, cao hơn trung bình của châu Á (19,9%).

Tỉ lệ nữ sinh viên của ta cũng cao, trên 50%, trong số thạc sĩ thì tỷ lệ nữ cũng khoảng hơn 30% và nữ tiến sĩ khoảng 17%.

Về vấn đề sức khỏe, chúng ta cũng thấy chính sách của Nhà nước trong việc cấp phát thẻ bảo hiểm y tế đối với các gia đình nghèo, hỗ trợ các gia đình cận nghèo và hỗ trợ chung để có điều kiện đảm bảo sức khỏe, vấn đề chăm sóc thai nghén v.v... Đảng và Nhà nước cũng rất quan tâm và có nhiều chính sách để đảm bảo quyền và cơ hội bình đẳng của phụ nữ.

Nhà báo Ngọc Trang: Một độc giả đến từ Hà Tĩnh có câu hỏi dành cho ông Đặng Hoa Nam: Xin ông cho biết trọng tâm, phương hướng, nhiệm vụ của công tác bảo vệ trẻ em trong năm 2020 và xa hơn nữa là giai đoạn 2021-2025.

Ông Đặng Hoa Nam: Công tác bảo vệ trẻ em ngày càng được Quốc hội, Chính phủ, được xã hội quan tâm. Trong việc bảo đảm thực hiện quyền trẻ em thì thời gian gần đây đang nổi lên vấn đề liên quan đến quyền được bảo vệ, được sống an toàn của trẻ em.

Tôi phải nói một chút về sự thay đổi phương pháp tiếp cận bảo vệ trẻ em. Từ khi chúng ta phê chuẩn công ước của Liên hợp quốc về quyền trẻ em vào năm 1990, thì cách tiếp cận của Việt Nam cũng như rất nhiều quốc gia khác ở trên thế giới chủ yếu bảo vệ nhóm trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, tức là chủ yếu giải quyết hậu quả. Phương pháp tiếp cận của chúng ta đi bảo vệ theo từng nhóm một. Ví dụ trẻ em lang thang, trẻ em bị xâm hại tình dục, trẻ em bị bóc lột sức lao động, trẻ em bị bỏ rơi, v.v...

Tuy nhiên, khoảng 15 năm trở lại đây cách tiếp cận của Việt Nam cũng như rất nhiều quốc gia khác đã thay đổi khi chúng ta học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia đi trước, đặc biệt các quốc gia phát triển. Chúng ta xây dựng một hệ thống bảo vệ trẻ em một cách đồng bộ.

Thứ nhất là sự đồng bộ về pháp luật. Luật Trẻ em 2016 quy định rất chi tiết, đảm bảo nền tảng pháp lý cho hệ thống bảo vệ trẻ em vận hành một cách đồng bộ.

Thứ hai, dịch vụ chuyên biệt về bảo vệ trẻ em thời gian vừa qua có rất nhiều tiến bộ. Ví dụ, Tổng đài 111 là tổng đài quốc gia, là một trong những dịch vụ bảo vệ trẻ em đặc biệt. Một thí dụ khác, hiện nay hơn 40 tỉnh thành phố có trung tâm công tác xã hội, trong đó nội dung hoạt động quan trọng của trung tâm là bảo vệ trẻ em.

Ngoài ra chúng ta có hàng loạt các cơ sở trung tâm trợ giúp pháp lý, có các văn phòng luật sư, có các đội ngũ luật sư có thể sẵn sàng hỗ trợ trẻ em cũng như gia đình trẻ về mặt tư pháp…

Gần đây nhất Luật tổ chức Tòa án đã quy định về Tòa án gia đình và người chưa thành niên, trong đó tiến hành những xét xử, tố tụng liên quan đến bảo vệ trẻ em.

Bên cạnh đó, thời gian vừa qua chúng ta cũng đã sửa đổi bổ sung hàng loạt các bộ luật và luật quan trọng khác liên quan bảo vệ trẻ em, như Luật tố tụng hình sự, Luật tố tụng dân sự, Luật xử lý vi phạm hành chính…

Tuy nhiên trong giai đoạn sắp tới đặc biệt năm 2020 và giai đoạn 2021 - 2025 cũng như 10 năm tiếp theo thì lộ trình cũng đã được chỉ ra chúng ta cần phải tiếp tục sửa đổi bổ sung toàn bộ hệ thống pháp luật về quyền trẻ em để nó tương thích, phù hợp với những quy định về quyền trẻ em trong Hiến pháp 2013, cũng như 25 điều quy định về quyền trẻ em trong Luật trẻ em 2016. 

Một vấn đề nữa là chúng ta phải đặt trọng tâm giai đoạn 5 năm, 10 năm tiếp theo là tiếp tục phát triển hệ thống dịch vụ bảo vệ trẻ em chuyên nghiệp hơn.

{keywords}
Ông Đặng Hoa Nam, Cục trưởng Cục trẻ em, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội

Thứ ba, nhiệm vụ trọng tâm Thủ tướng chỉ đạo rất kiên quyết, gắt gao trong thời gian vừa qua là phải thành lập một nhóm thường trực để bảo vệ trẻ em do chính UBND xã đứng đầu. Thậm chí, Bộ trưởng Bộ Lao động Thương binh Xã hội (LĐTB&XH) đã có văn bản hướng dẫn và yêu cầu nhưng các cấp địa phương, đặc biệt là cấp tỉnh thành phố và cấp xã thực hiện ý kiến chủ đạo của Thủ tướng còn chậm.  

Một phần do nguồn nhân lực, số lượng người được giao làm công tác bảo vệ trẻ em ở cấp xã, hay công tác tập huấn nâng cao năng lực còn rất hạn chế.

Do đó có thể nói là nhiều quy định của pháp luật, đặc biệt của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, pháp luật về tố tụng hình sự hay là quy định của Luật trẻ em 2016, các chính sách của nhà nước khác về bảo vệ trẻ em chưa được thực hiện do thiếu nguồn nhân lực và cơ cấu tổ chức.

Nhà báo Ngọc Trang: Thưa ông Đặng Hoa Nam, ngày 1/6/2017 Luật trẻ em 2016 chính thức có hiệu lực là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo vệ trẻ em. Theo ông, qua hơn 2 năm thực thi, Luật góp phần đảm bảo quyền trẻ em ra sao?

Ông Đặng Hoa Nam: Việc gia đình, người dân cũng như trẻ em và phụ nữ lên tiếng tố cáo các hành vi xâm hại, đặc biệt là xâm hại tình dục trẻ em cho thấy Luật trẻ em và Luật tố tụng hình sự đã bắt đầu đi vào cuộc sống. Bởi vì trong Luật trẻ em quy định:

Thứ nhất: Luật quy định rõ trách nhiệm của mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân phải thông báo, tố cáo, tố giác đến các cơ quan chức năng về mọi hành vi xâm hại trẻ em.

Luật cũng quy định rất cụ thể những cơ quan, tổ chức nào chịu trách nhiệm tiếp nhận và xử lý thông tin. Ví dụ: cơ quan công an các cấp, cơ quan LĐTB&XH các cấp, đại diện là tổng đài quốc gia bảo vệ trẻ em hay UBND phường, xã là những nơi buộc phải tiếp nhận và xử lý thông tin.

Hơn nữa, hiện nay sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý nhà nước về xã hội với các cơ quan tư pháp tốt hơn trước đây rất nhiều.

Trước đây các cơ quan gần như làm việc độc lập. Các cơ quan quản lý nhà nước về quyền trẻ em, về quyền phụ nữ rất khó tác động thúc đẩy quá trình này của các cơ quan điều tra và các cơ quan tư pháp, đặc biệt là các cơ quan tư pháp, nhưng gần đây đã có sự phối hợp tốt giữa các cơ quan.

Cùng hệ thống dịch vụ ngày càng chuyên nghiệp hơn và trong thời gian không xa nếu nghề công tác xã hội và đặc biệt là Luật công tác xã hội được xây dựng, được thông qua, nó sẽ đảm bảo vững chắc hơn cho việc bảo vệ phụ nữ và trẻ em trước các hành vi bị xâm hại, đồng thời giải quyết được những vấn đề vướng mắc của các cơ quan tư pháp hiện nay.

Nhà báo Ngọc Trang: Thưa ông Đặng Hoa Nam, những năm qua Cục trẻ em đã có hoạt động cụ thể nào để thúc đẩy các chính sách của Đảng và Nhà nước về quyền trẻ em. Trong năm 2020 Cục có mục tiêu và kế hoạch như thế nào để nâng cao nhận thức về quyền trẻ em?

Ông Đặng Hoa Nam: Cục trẻ em là một cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực trẻ em nói chung theo quy định của Luật trẻ em 2016 cũng như trực tiếp được giao thực hiện một số nội dung liên quan đến trẻ em như vấn đề phòng chống tai nạn thương tích, bảo vệ trẻ em hay là quản lý nhà nước về quyền tham gia của trẻ em…

Một trong những vấn đề Cục trẻ em thực hiện trong thời gian vừa qua và hoàn thành khá là tốt nhiệm vụ tham mưu cho Chính phủ, Quốc hội về pháp luật chính sách.

Cục trẻ em là một trong những đơn vị chủ trì tổ biên tập và giúp việc cho ban soạn thảo để xây dựng Luật trẻ em 2016 đã được Quốc hội thông qua. Tiếp đó chủ trì và phối hợp với các bộ ngành và các đơn vị khác, các tổ chức xã hội, các tổ chức chính trị xã hội để xây dựng các nghị định, thông tư và các chính sách khác.

Hiện nay, về lĩnh vực trẻ em, Chính phủ có rất nhiều quyết định của Thủ tướng về các đề án kế hoạch chương trình tổng thể cũng như giải quyết từng vấn đề trẻ em phát sinh. Ví dụ phòng chống xâm hại trẻ em, phòng chống tệ nạn thương tích đối với trẻ em hay là thúc đẩy quyền tham gia trẻ em, hay phòng ngừa và giảm thiểu lao động trẻ em…

Nhiệm vụ trọng tâm ở giai đoạn 2020 cũng như những năm sắp tới của Cục trẻ em là thực hiện tốt nhất chức năng quản lý nhà nước của mình, để Luật trẻ em cũng như pháp luật chính sách khác thực sự đi vào cuộc sống.

Một công việc rất quan trọng nữa là Cục trẻ em chuẩn bị xây dựng chiến lược phát triển trẻ em mới để trình Thủ tướng chính phủ phê duyệt và giải quyết có hiệu quả các vấn đề liên quan đến trẻ em.

Tham mưu về mặt chính sách, chúng tôi đi sâu vào việc làm sao tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, hướng dẫn địa phương, các cấp địa phương đặc biệt là cấp xã để làm sao thực hiện tốt hơn quyền trẻ em nói chung và trọng tâm là công tác bảo vệ trẻ em, phòng chống xâm hại trẻ em.

Chúng tôi hi vọng sau giám sát tối cao của Quốc hội thực hiện chính sách về phòng chống xâm hại trẻ em, tình hình trẻ em bị xâm hại hay việc giải quyết các vụ việc xâm hại trẻ em sẽ thực sự được thúc đẩy nhanh hơn và tạo được niềm tin trong dư luận xã hội cũng như trong các gia đình, trong cộng đồng về vị trí vai trò của các cơ quan tư pháp cũng như các cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo vệ trẻ em và thực hiện các quyền khác của trẻ em.

Hi vọng làm sao quyền trẻ em không chỉ là thể hiện trong văn bản pháp luật quốc tế như công ước quyền trẻ em, không thể nằm trong những quy định một cách hình thức ở trong các văn bản pháp luật và chính sách mà thực sự đi vào cuộc sống.

Quyền trẻ em phải trở thành nhận thức, thành hành vi ứng xử hàng ngày trong các trường học, các gia đình và sự hiểu biết của những người tham gia vào các tổ chức chính trị xã hội, phải trở thành suy nghĩ ưu tiên thường trực trong sự chỉ đạo, lãnh đạo của chính quyền các cấp. Đặc biệt là ưu tiên nguồn lực về mặt ngân sách về mặt nhân lực cho công tác trẻ em. 

Tầm quan trọng của môi trường an toàn cho phụ nữ, trẻ em

Nhà báo Ngọc Trang: Độc giả Hoàng Thị Hà ở Hải Phòng có câu hỏi với bà Nguyễn Thị Thanh Hòa như sau: “Năm nay Trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam phát động năm “An toàn cho phụ nữ và trẻ em”. Vậy tầm quan trọng của việc tạo ra môi trường này ra sao và xuất phát từ bối cảnh thực tế nào?”

Bà Nguyễn Thị Thanh Hòa: Tôi cũng là thành viên của Ban chấp hành trung ương Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Tôi đánh giá rất cao chủ đề này của năm 2019, ngắn gọn nhưng hàm chứa nhiều ý nghĩa lớn. Việc xây dựng môi trường an toàn cho phụ nữ và trẻ em là một nhiệm vụ có tính chất đặc biệt quan trọng.

{keywords}

Thứ nhất, nếu môi trường gia đình, xã hội, nhà trường hay nơi làm việc an toàn thì đó là một cách phòng ngừa tốt nhất trong việc phòng chống xâm hại phụ nữ và trẻ em.

Thứ hai: Môi trường an toàn tạo điều kiện về mọi mặt để phụ nữ và trẻ em phát triển toàn diện.

Thứ ba: Sự an toàn mọi nơi mọi lúc cũng tạo ra một cảm giác một cuộc sống an bình, lành mạnh. Tâm trạng của con người, đời sống tinh thần cũng được yên tâm, bớt đi lo lắng, thoải mái hơn, từ đó giúp cải thiện năng suất lao động của xã hội, cũng là điều kiện tốt để cho các em học hành tốt hơn, cha mẹ yên tâm khi đưa con đến trường hoặc để con ở nhà.

Đặt ra chủ đề này là để chúng ta tập trung nguồn lực cả về nhân lực và tài lực cho nhiệm vụ giữ gìn môi trường an toàn lành mạnh.

Thực tế, thời gian gần đây những vấn đề về xâm hại phụ nữ rồi xâm hại trẻ em có xu hướng gia tăng, diễn biến phức tạp. Những trường hợp như cô gái hay cháu bé ở trong thang máy bị những người có những hành vi sàm sỡ xâm hại gây một ảnh hưởng khó chịu cho phụ nữ cũng như trẻ em.

Hay môi trường gia đình, tưởng là nơi tốt đẹp, an toàn nhất cũng có những cháu cũng bị xâm hại. Rồi các con đến trường học phụ huynh nghĩ như vậy là yên tâm, vậy mà nhiều cháu vẫn bị xâm hại, thậm chí rất nghiêm trọng.

Cho nên tôi thấy, đặt ra một chủ đề như thế này là một đích để phấn đấu, không chỉ một năm mà nhiều năm. Năm 2019 là năm khởi đầu để chúng ta tập trung rồi tạo ra những cách làm sáng tạo, đảm bảo được an toàn cho phụ nữ, trẻ em là những đối tượng thuộc nhóm yếu thế.

Tôi thấy đây là một nhiệm vụ có tính chất cấp bách nhưng cũng phải lâu dài, chiến lược và thường xuyên.

Nhà báo Ngọc Trang: Thưa ông Nam, trong bối cảnh hiện nay việc đảm bảo an toàn cho phụ nữ và trẻ em trên mạng có vai trò quan trọng ra sao? Pháp luật của chúng ta đã có những bước tiến nào để theo kịp sự tiến triển mang tính thời sự này chưa?

Ông Đặng Hoa Nam: Nói về môi trường mạng thì trước hết chúng ta cũng phải nhắc đến tính tích cực của nó. Môi trường mạng mang lại rất nhiều các lợi ích, tiện ích cho tất cả mọi người trong đó có trẻ em.

Tuy nhiên, phải thừa nhận môi trường mạng cũng là môi trường tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Đối với trẻ em đó là nguy cơ phải tiếp cận những thông tin xấu độc, không phù hợp, hay nguy cơ bị xâm.

Vấn đề ở đây là phải làm sao để pháp luật, chính sách bảo vệ được trẻ em trên môi trường mạng và phát huy tối đa những lợi ích, tiện ích của môi trường mạng đến.

Trước đây, khi Luật An ninh mạng mới được Quốc hội thông qua, có rất nhiều ý kiến trái chiều cho rằng đây là sự tăng cường quản lý của nhà nước hay là vi phạm quyền tự do của công dân v.v... Nhưng càng ngày chúng tôi càng khẳng định pháp luật Việt Nam về an ninh an toàn trên môi trường mạng trước hết là vì người dân, vì trẻ em.

{keywords}

Chúng tôi cho rằng:

Thứ nhất, trẻ em cũng như mọi người khi đã tham gia vào môi trường mạng cần phải hiểu được nó cũng giống như trong cuộc sống thường ngày, tức là cũng có những thông tin thật, thông tin thất thiệt, có những thông tin cần kiểm nghiệm.

Thứ hai, cần phải có văn hóa giao tiếp trên môi trường mạng.

Thứ ba, cần có hiểu biết pháp luật, không phải ở trên mạng muốn làm gì thì làm. Khi trên mạng có những hành vi vi phạm đến quyền, lợi ích, thậm chí xâm phạm đến lợi ích, tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm của người khác và để lại hậu quả thì đối tượng đó cũng bị pháp luật xử lý.

Bên cạnh đó, chúng tôi cho rằng các cơ quan quản lý nhà nước về không gian mạng cũng như các cơ quan bảo vệ trẻ em hay các doanh nghiệp hoạt động trên môi trường mạng, cung cấp dịch vụ trên môi trường mạng có một trách nhiệm về pháp lý, trách nhiệm về xã hội rất quan trọng. Chúng ta cần phải sử dụng chính môi trường mạng để bảo vệ trẻ em.

Thời gian qua chúng tôi đã được sự hỗ trợ rất tích cực của tổ chức Microsoft. Chúng tôi cùng với Micorosoft Việt Nam và tổ chức về quyền trẻ em Childfund ở Việt Nam xây dựng một phần mềm, để trẻ em và mọi người dân có thể sử dụng ứng dụng này, chuyển gửi nhanh nhất thông tin tố cáo, tố giác hay những bằng chứng như băng ghi âm, hình ảnh, clip về hành vi xâm hại trẻ em chuyển về Tổng đài quốc gia 111.

Nhà báo Ngọc Trang: Thưa bà Thanh Hòa, độc giả Hoài Linh ở Bắc Giang gửi tới bà câu hỏi như sau: “Trong năm 2019 Hội bảo vệ trẻ em đã giải quyết và tư vấn được bao nhiêu vụ và vụ việc nào khiến bà ấn tượng nhất?”

Bà Nguyễn Thị Thanh Hòa: Chúng tôi đã tiếp nhận 32 đơn thư của công dân và có 27 văn bản gửi đến các cơ quan chức năng để đề nghị giải quyết về các vụ việc vi phạm quyền trẻ em.

Chúng tôi cũng đã cử luật sư tham dự các phiên tòa. Như vụ cháu bé bị cha dượng xâm hại tình dục, có cử luật sư lên 7 lần để tham dự phiên tòa thực hiện trách nhiệm bảo vệ quyền trẻ em.

Thông qua Facebook, có 65 lượt người đã kết nối để đề nghị tư vấn về pháp luật cũng như là đề nghị can thiệp trong một số vụ việc vi phạm quyền trẻ em.

Trong đó, tôi nhớ một vụ ở Chương Mỹ (Hà Nội) gây bức xúc dư luận xã hội, vì chưa đồng tình với cách xử lý của công an huyện.

Hôm đó tôi đi vắng nên khi tiếp nhận, phó chủ tịch Hội gọi điện cho tôi trao đổi. Chị nói Hội có một công văn, chỉ cần mình ký một kiến nghị gửi lên Công an Thành phố, đề nghị rút hồ sơ, điều tra lại thì là các cơ quan báo chí sẽ đưa lên các phương tiện thông tin đại chúng. Tôi đồng ý ngay. Sau đó đã có rất nhiều ý kiến tham gia của các cơ quan. Ngay sáng sớm hôm sau, tôi nhận được tin là Công an thành phố đã đề nghị là rút hồ sơ lên.

Vụ việc đó lúc đầu cơ quan điều tra chỉ xác định là có hành vi dâm ô trong khi chứng cứ cho thấy dấu hiệu xâm hại nghiêm trọng. Cuối cùng, nhờ sự can thiệp kịp thời, thủ phạm bị kết tội tới chung thân. 

Lên tiếng vì sự tiến bộ

Nhà báo Ngọc Trang: Thưa bà Hòa, thực tế cho thấy nhiều vụ xâm hại phụ nữ và trẻ em không được đưa ra ánh sáng bởi sự e ngại của dư luận, bà đánh giá thực trạng này ở Việt Nam thế nào?

Bà Nguyễn Thị Thanh Hòa: Tôi thấy ở Việt Nam, những trường hợp bị xâm hại, gia đình rất ngại nói ra. Không chỉ cha mẹ ngại mà bản thân các cháu bị xâm hại cũng ngại nói. Một trong những nguyên nhân khiến tình trạng xâm hại trẻ em, đặc biệt là xâm hại tình dục trẻ em gia tăng là sự im lặng, không lên tiếng.

Nhiều khi những người xung quanh biết đứa trẻ đó bị xâm hại thay vì thông cảm, chia sẻ, lại nhìn với con mắt xa lánh. Bởi vậy, có những gia đình con bị xâm hại ngại không muốn nói ra, ngại ảnh hưởng tới tương lai học hành, kết hôn của các cháu sau này.  Điều này đã cản trở họ gặp các cơ quan chức năng để phản ánh.

Các cháu có khi bị xâm hại tình dục cũng không hiểu là mình đã bị xâm hại. Cha mẹ mải làm ăn nên con cái cũng không có điều kiện tâm sự, cứ giữ kín và như thế rất nguy hiểm. Có khi cháu lại tiếp tục lại bị xâm hại.

Tôi thấy sự im lặng này là tình trạng phổ biến trên đất nước mình. Cho nên có những nơi đã đặt khẩu hiệu là “im lặng tức là tội ác”, hoặc tôi thấy ở Tổng đài 111 có những biểu ngữ treo ở các trường học, đại ý rằng khi bạn bị, hoặc là chứng kiến hành vi xâm hại thì hãy gọi ngay cho tổng đài 111. Đó là những các khẩu hiệu tuyên truyền rất tốt. Tuy nhiên, cần phải đi sâu hơn nữa, tác động sâu rộng đến các gia đình, các bậc phụ huynh.

Nhà báo Ngọc Trang: Xin được hỏi ông Đặng Hoa Nam, ông cảm thấy sự thay đổi của người dân trong việc lên tiếng tố cáo bạo lực trẻ em, xâm hại tình dục như thế nào trong những năm gần đây?

Ông Đặng Hoa Nam: Nhắc đến việc lên tiếng tố cáo các hành vi xâm hại, đặc biệt là xâm hại tình dục đối với phụ nữ và trẻ em thì chúng tôi bắt đầu phải từ hai câu chuyện.

Câu chuyện thứ nhất là phong trào Me Too, xuất phát từ Hollywood, Hoa Kỳ rồi lan rất rộng sang các nước khác và trở thành một phong trào toàn cầu để những người phụ nữ nói riêng và những người bị xâm hại nói chung lên tiếng tố cáo những hành vi, đặc biệt là xâm hại tình dục.

Câu chuyện thứ hai: Gần đây hệ thống pháp luật của một số quốc gia đã cho phép nạn nhân bị xâm hại có thể tố cáo hành vi xâm hại mình trước đó nhiều năm, thậm chí đến 18 - 25 năm, tòa vẫn tiếp nhận vẫn thụ lý để tiến hành điều tra xét xử.

Chúng tôi cho rằng đó là những cách chính thức tấn công vào những hành vi xâm hại, đặc biệt là xâm hại tình dục đối với phụ nữ trẻ em. Bởi thông thường những hành vi xâm hại, đặc biệt xâm hại tình dục đối với phụ nữ và trẻ em, xâm hại tình dục nói chung rất khó thu thập bằng chứng và thường người bị xâm hại ở thế yếu hơn so với kẻ xâm hại.

Cho nên để bảo vệ nạn nhân, để nạn nhân dám tố cáo, chúng ta cần phải có sự thay đổi bắt đầu từ nhận thức, từ đó nhận thức xã hội cũng bắt đầu thay đổi. Bên cạnh đó, cần phải có những quy định về mặt pháp luật cụ thể, rõ ràng. Đặc biệt là bảo vệ những thông tin bí mật riêng tư của họ mà vẫn có thể đấu tranh về mặt tố tụng, xử lý những hành vi, những vụ án xâm hại tình dục phụ nữ và trẻ em.

{keywords}

Chúng ta đã có và sẽ tiếp tục làm, tiếp tục sửa đổi chắc chắn là sẽ tốt hơn. Chúng tôi cũng cho rằng, dịch vụ bảo vệ phụ nữ và trẻ em của chúng ta cũng đã tốt hơn rất nhiều. Ví dụ Tổng đài quốc gia bảo vệ trẻ em 111, các ngôi nhà bình yên, các ngôi nhà tạm lánh của hội phụ nữ giúp nạn nhân tìm chỗ nương náu an toàn để có thể lên tiếng tố cáo.

Trong 3-5 năm tới ở Việt Nam, những vụ việc xâm hại ngược đãi phụ nữ và trẻ em được tố cáo chắc chắn sẽ gia tăng. Điều đó không có nghĩa là thực trạng số vụ việc xâm hại tăng lên mà ở khía cạnh nào đó, nó phản ánh mặt tiến bộ xã hội, tiến bộ về mặt pháp luật, tiến bộ về mặt nhận thức, tiến bộ về các dịch vụ của xã hội nói chung và dịch vụ công của nhà nước cung cấp cho trẻ em và phụ nữ nói riêng.

Lấy thí dụ các cuộc gọi đến Tổng đài quốc gia bảo vệ trẻ em 111. Giai đoạn 2011-2014, Tổng đài 111 chỉ tiếp nhận khoảng 1.000 cuộc gọi thông báo, tố cáo, tố giác về hành vi xâm hại trẻ em, tức là trung bình khoảng 250 cuộc gọi tố cáo/ năm. Giai đoạn 2015 -2018 có 1.680 cuộc, tức là tăng lên 400 cuộc gọi 1 năm. Riêng 6 tháng đầu năm 2019 đã có 353 cuộc, tức là kết thúc năm 2019, số cuộc có thể sẽ tăng gấp đôi so với giai đoạn trước đó.

Điều này cho thấy người ta chịu lên tiếng hơn và nó không nhất thiết phản ánh sự bất ổn xã hội gia tăng mà là một xu thế tiến bộ. Tôi cho rằng nếu chúng ta làm tốt công tác pháp lý, dịch vụ, nhận thức của người dân, gia đình, trẻ em và phụ nữ thì sau khoảng 3-5 năm nữa có thể các vụ việc về xâm hại đặc biệt là xâm hại tình dục đối với phụ nữ và trẻ em sẽ giảm dần.

Nhà báo Ngọc Trang: Thưa ông Đặng Hoa Nam, ông có thể chia sẻ kỹ hơn với độc giả về Tổng đài 111?

Ông Đặng Hoa Nam: Tổng đài quốc gia bảo vệ trẻ em 111 chính là dịch vụ công rất đặc biệt. Về mặt pháp lý, tổng đài này do Chính phủ thiết lập và Chính phủ giao cho Bộ LĐTB&XH quản lý và vận hành, Bộ  giao cho Cục trẻ em. Cục trẻ em làm cơ quan quản lý nhà nước, tham mưu quản lý nhà nước để bảo đảm quyền trẻ em và bảo vệ trẻ em.

Hiện nay chúng tôi có những con số thống kê thông qua phân tích các cuộc gọi đến, các cuộc gọi liên quan đến bạo lực trẻ em, phân tích các cuộc gọi liên quan đến xâm hại tình dục trẻ em.

Khi Luật trẻ em có hiệu lực và Nghị định 56 Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật, đặc biệt là nội dung bảo vệ trẻ em thì nhận thức của người dân và các dịch vụ của Chính phủ cũng như của các bộ ngành cung cấp tốt hơn, thân thiện hơn.

Ví dụ, Tổng đài 111 hoạt động 24 giờ tất cả các ngày kể cả đêm 30 Tết âm lịch, sáng mùng 1 Tết. Nếu tổng đài có vấn đề trục trặc hay nhân viên tư vấn có thái độ thiếu thân thiện, chuyên nghiệp người dân hoàn toàn có thể phản ánh lại trên các phương tiện truyền thông, hoặc trực tiếp với Cục trẻ em là cơ quan quản lý dịch vụ này.

Tổng đài này là dịch vụ đặc biệt bởi nó có địa vị pháp lý rất cụ thể. Nó được trao một phần quyền của cơ quản lý nhà nước để bảo vệ trẻ em, có quyền yêu cầu chính quyền địa phương, đặc biệt chính quyền UBND ở cấp xã, có quyền yêu cầu các cơ quan công an xử lý.

Nhà báo Ngọc Trang: Theo ông pháp luật có vai trò ra sao trong việc thúc đẩy người dân lên tiếng tố cáo các vụ xâm hại trẻ em?

Ông Đặng Hoa Nam: Đúng như chị Thanh Hòa nói, tại các nước phát triển, trong Luật trẻ em họ có quy định gần như bắt buộc bất kỳ ai kể cả các thành viên gia đình khi chứng kiến hành vi bạo lực xâm hại trẻ em kể cả xâm hại tình dục trong chính gia đình mình đều phải tố cáo với các cơ quan chức năng. Còn nếu không tố cáo thì bản thân họ cũng bị xử lý.

Về lâu dài, Luật trẻ em Việt Nam cũng sẽ có những thay đổi như vậy. Trong đó quy định những người có trách nhiệm tố cáo, bảo vệ trẻ em và tố cáo đến cơ quan chức năng đấy là ai? Đó là những người gần trẻ em nhất, nắm được nhiều thông tin về trẻ em nhất.

Sắp tới, khi luật xử lý hành chính được sửa đổi bổ sung thì trong các nghị định xử lý các hành vi về lĩnh vực quyền trẻ em chúng tôi cũng mong muốn đưa vào những chế tài xử lý về mặt hành chính và hình sự đối với hành vi không tố cáo này.

Bởi vì tố cáo bắt buộc có rất nhiều vấn đề đằng sau, thực tế nhiều khi, bố xâm hại tình dục con nhưng mà mẹ ngại tố cáo. Vì người mẹ sợ đổ vỡ hạnh phúc gia đình, dẫn đến bị trả thù, bị bạo hành, v.v... Hay bản thân là ông bà xâm hại, bạo lực đối với cháu nhưng con lại ngại tố cáo. Ở khía cạnh luật pháp, nguyên tắc bảo vệ trẻ em, tất cả mọi người thành viên trong gia đình đều phải tố cáo và có biện pháp xử lý.

Tôi nghĩ rằng, trong quá trình sửa đổi bổ sung pháp luật giai đoạn 5 năm, 10 năm tiếp theo, chúng ta phải có những quy định cụ thể hơn nữa. Đặc biệt là về mặt chế tài đối với những hành vi xâm hại trẻ em.

Nhà báo Ngọc Trang: Thưa ông Hoa Nam, vậy Cục trẻ em có kế hoạch và triển khai như thế nào trong năm 2020 để tổng đài 111 tiếp tục được lan rộng hơn ở miền núi và vùng nông thôn?

Ông Đặng Hoa Nam: Chúng tôi đang và sẽ tiếp tục quảng bá rộng rãi Tổng đài 111 để nhiều người biết đến hơn, đặc biệt là vùng sâu vùng xa. Ví dụ, chúng tôi đưa ra rất nhiều tiện ích, như phần mềm ứng dụng trên môi trường mạng, để người dân có thể tiếp cận tốt nhất.

Thứ hai, chúng tôi cũng triển khai các kênh quảng bá. Bởi vì đây là một dịch vụ được quy định trong luật. Do đó chúng tôi sẽ tiếp tục yêu cầu các cơ quan quản lý nhà nước chỉ đạo theo hệ thống ngành dọc của mình, đặc biệt là hệ thống dịch vụ của theo ngành.

Hệ thống các trường học, bệnh viện, cơ sở khám chữa bệnh, trạm y tế, phương tiện giao thông như taxi, xe buýt… đều có thể quảng bá những thông tin về Tổng đài 111. Tôi cho rằng trong 5 năm sắp tới, việc quảng bá cho 111 rộng rãi hơn so với trước đây rất nhiều.

Nhà báo Ngọc Trang: Thưa bà Hòa, sự chênh lệnh nhận thức và thực hiện quyền phụ nữ, trẻ em giữa thành phố và nông thôn được đánh giá là khá lớn. Quan điểm của bà về vấn đề này thế nào?

Bà Nguyễn Thị Thanh Hòa: Thực tế khi đi giám sát các vụ việc xâm hại trẻ em, tôi thấy thường bước đầu người xâm hại đến để thỏa thuận với gia đình của nạn nhân bị xâm hại. Họ thỏa thuận không được thì bắt đầu đe dọa.

Nhiều trường hợp bị phát hiện chậm chính là từ chỗ hai bên không thỏa thuận được thì mới đưa ra cơ quan pháp luật.

{keywords}

Gần đây, chúng tôi mới làm việc với một tổ chức của Hàn Quốc. Bên họ có một quy định rất nghiêm. Tức là những người nào biết các trường hợp xâm hại mà không tố cáo thì bị phạt đến 3 triệu won, tức là khoảng 3.000 đô la.

Tôi cho rằng chế tài mạnh mẽ như thế buộc chúng ta không thể im lặng trước nhưng hành vi vi phạm pháp luật. Ở ta cũng có chế tài nhưng còn nhẹ nên nhiều khi bị lờ đi.

Còn nhận thức về quyền phụ nữ và trẻ em giữa nông thôn, thành thị, bao giờ cũng có những chênh lệch nhất định. Nhưng đúng như anh Nam nói, sắp tới nhận thức đó sẽ được nâng lên. Bởi chúng ta tích cực tuyên truyền về Luật trẻ em, các quyền của trẻ em, tuyên truyền về bộ luật hình sự, luật tố tụng hình sự… thì nó sẽ đến được nhiều với người dân và đó là biện pháp tốt nhất để nâng cao nhận thức.

Tôi cũng nhận thấy, một số bậc cha mẹ thường có tâm lý chủ quan, cho rằng người khác bị xâm hại, chứ con/em mình sẽ không bị. Thực tế, ai cũng có nguy cơ trở thành đối tượng bị xâm hại. Nếu chúng ta không biết cách hướng dẫn con, biết cách tự bảo vệ như thế nào?

Để nâng cao được nhận thức thì chúng ta cũng phải tập trung vào các vùng sâu vùng xa, vùng nông thôn để có những hình thức tuyên truyền sát thực. Ví dụ: Tổng kết đánh giá lại các vụ bị xâm hại ở địa phương mình, xác định nguyên nhân từ đâu thì cần tập trung phổ biến những nguyên nhân đó cho người lớn và các cháu.

Bây giờ nhiều khi bố mẹ bận đi làm hoặc làm ăn xa để cháu cho ông bà do đó cũng phải hướng đến cả đối tượng là ông bà trông cháu thì mới dần dần nâng nhận thức lên được.

Nhà báo Ngọc Trang: Ý kiến của ông ra sao về những khó khăn trong việc thực hiện quyền trẻ em ở nông thôn và miền núi, thưa ông Hoa Nam?  

Ông Đặng Hoa Nam: Tôi cho rằng, một vấn đề khó khăn trong công tác phòng chống xâm hại phụ nữ, trẻ em chênh lệch giữa ở vùng thành thị và nông thôn, đặc biệt là ở vùng miền núi vùng sâu vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số là vấn đề định kiến giới.

Khi vụ việc xâm hại trẻ em xảy ra, chẳng hạn xâm hại tình dục là rất nghiêm trọng, kể cả dâm ô cũng là hình sự rồi, nhưng như chị Hòa nói, nhiều khi giữa gia đình của nạn nhân với gia đình thủ phạm lại tiến hành hòa giải.

Nạn nhân có khi còn bị dọa dẫm và đôi khi bị cho là có lỗi đã để thủ phạm tiến hành hành vi như vậy. Định kiến giới còn thể hiện ở chỗ là một trẻ em đặc biệt trẻ em gái hay một người phụ nữ mà bị xâm hại tình dục thì bị coi như cuộc đời đã hỏng.

Tại một số các quốc gia khác, thủ phạm kể cả khi chấp hành án xong, ra tù vẫn bị cộng đồng kỳ thị, coi như mang một án suốt đời và buộc phải rời nơi cư trú. Ở Việt Nam lại rất ngược đời, nạn nhân của những vụ việc xâm hại, xâm hại tình dục nhiều khi phải xấu hổ chuyển đi nơi khác. Trong khi thủ phạm, kể cả trong quá trình đang tiến hành các thủ tục tố tụng vẫn được tại ngoại, nhởn nhơ quay trở lại đe dọa chính gia đình nạn nhân.

Tôi cho rằng những nhận thức về mặt xã hội, ứng xử xã hội đối với nạn nhân và thủ phạm xâm hại tình dục phụ nữ, trẻ em cần phải thay đổi.  Những người đáng bị lên án, mang án suốt đời chính là các thủ phạm.   

Cách tiếp cận từ “bảo vệ” sang “thúc đẩy”

Nhà báo Ngọc Trang: Thưa bà Thanh Hòa, theo bà bộ Luật lao động sửa đổi năm 2019 có thể hiện sự thay đổi cách tiếp cận từ bảo vệ lao động nữ sang thúc đẩy bình đẳng giới và đảm bảo quyền hay không? Việc chúng ta tăng tuổi nghỉ hưu của nữ được xem là nhằm đảm bảo bình đẳng giới. Ý kiến của bà về vấn đề này thế nào?

Bà Nguyễn Thị Thanh Hòa: Tôi thấy đúng là chúng ta đang thay đổi cách tiếp cận, từ chỗ chỉ chú ý đến những phúc lợi cho phụ nữ, tiếp cận phụ nữ, bây giờ chúng ta tiếp cận giới.

Bởi công tác phụ nữ, sự tiến bộ của phụ nữ, rồi mục tiêu bình đẳng giới là của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội chúng ta cùng làm thì mới đạt được kết quả.

Bộ luật lao động thay đổi vấn đề này rất tốt ở chỗ, nếu chúng ta chăm chăm bảo vệ phụ nữ thì nhiều khi lại tạo ra lực cản với họ. Cho nên, bảo vệ từ góc độ quyền, tiếp cận từ góc độ quyền sẽ tốt hơn.

Quyền trách nhiệm giới hay ở chỗ, con ốm không phải chỉ có mẹ nghỉ mà bố cũng nghỉ. Khi vợ sinh con, không chỉ người vợ nghỉ mà người chồng cũng phải có trách nhiệm chăm nom đứa con từ lúc mới sinh ra.

Tôi thấy đây là một cách rất tiến bộ để chúng ta bảo đảm được quyền bình đẳng của nam và nữ. Trừ mỗi chuyện sinh con và cho con bú, còn lại là tất cả các việc chăm sóc con, nam cũng như nữ đều có thể tham gia.

Với việc tăng tuổi nghỉ hưu, đây là một cách để đảm bảo quyền được làm việc của cả nam cả nữ. Tuổi nghỉ hưu ở Việt Nam gắn với rất nhiều thứ khác. Ví dụ, hai người cùng ra trường cùng làm một công việc nhưng đến tuổi 55 chẳng hạn, phụ nữ đã nghỉ hưu còn nam giới vẫn có cơ hội thăng tiến.

Nó còn gắn với việc đi đào tạo bồi dưỡng, phụ nữ chỉ có 50 tuổi là thôi không có nghĩ đến chuyện đó nữa nhưng nam giới 50 tuổi vẫn còn cả chặng đường rất tốt.

Hay nó gắn với chuyện thăng tiến. Nữ mà 50 tuổi thì ra khỏi quy hoạch nhưng nam 50 tuổi vẫn ở trong quy hoạch và vẫn có cơ hội để được đề bạt, được cất nhắc.  

Ông Đặng Hoa Nam: Tôi thống nhất với nhận định của chị Hòa. Chúng ta không chỉ nhấn mạnh việc bảo vệ phụ nữ trong lao động, trong việc làm mà nhấn mạnh quyền được lựa chọn của họ. Điều đó rất quan trọng, là cách tiếp cận rất mới của Luật lao động.

Ví dụ, phụ nữ trong thời kỳ mang thai, ngoại trừ một số thời gian, một số công việc không được phép để phụ nữ làm, phụ nữ được quyền lựa chọn có đi công tác hay không, làm ở vị trí nào…

Đây là một trong cách tiếp cận dựa trên bình đẳng giới và trao quyền cho người phụ nữ.

{keywords}

Nhà báo Ngọc Trang: Thưa bà Hòa, chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2020-2021 đang đi đến những năm cuối cùng, nhìn nhận lại quá trình này bà đánh giá thế nào?

Bà Nguyễn Thị Thanh Hòa: Trước hết, đây là một bước tiến từ chiến lược quốc gia “Vì sự tiến bộ phụ nữ” đến cách tiếp cận từ góc độ bình đẳng giới. Có thể nói đây là một bước tiến về tư duy, về cách tiếp cận,  về nhận thức.

Trong 10 năm qua cùng với sự phát triển kinh tế xã hội, chúng tôi thấy cả hệ thống chính trị đã nỗ lực rất lớn trong việc tổ chức thực hiện chiến lược quốc gia về bình đẳng giới.

Chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu, nhiều mục tiêu. Lần đầu tiên chúng ta có nữ chủ tịch Quốc hội. Đó là bước tiến lớn so với cả thế giới chứ không phải chỉ riêng Việt Nam. Chúng ta có tới 3 nữ ủy viên Bộ chính trị. Tức là ở những cơ quan quyết định về mặt chính sách, chúng ta đã có phụ nữ đứng ở vị trí quan trọng.

Không chỉ trong chính trị, trong lao động, việc làm, vấn đề trong giáo dục, chăm sóc sức khỏe chúng ta cũng có những tiến bộ và đạt được mục tiêu rất tốt.

Trong giai đoạn trước, bình đẳng giới là một điểm sáng được ghi nhận tại Việt Nam. Đến giai đoạn này, chúng ta thực hiện chiến lược phát triển bền vững đã ký kết ở Liên hiệp quốc. Chúng ta đã hết sức cố gắng nỗ lực thực hiện nhiều chủ trương chính sách.

Sau khi Nghị quyết 11 của Bộ chính trị ban hành và Luật bình đẳng giới ra đời thì việc lồng ghép ở trong các văn bản quy phạm pháp luật tốt hơn rất nhiều. Lồng ghép giới được đánh giá là biện pháp tốt nhất để đạt mục tiêu bình đẳng giới.

Bên cạnh đó, chúng ta cũng có một số các mục tiêu chưa đạt được, ví dụ Việt Nam là nước đứng thứ 174/178 về số lượng nữ bộ trưởng. Vừa rồi, bộ trưởng nữ duy nhất là chị Nguyễn Thị Kim Tiến đã nghỉ hưu nên hiện chúng ta không có thành viên Chính phủ nào là nữ.

Hay chỉ tiêu về nữ đại biểu Quốc hội, tuy có tăng và cũng là cao so với bình quân chung của châu Á nhưng mà vẫn chưa đạt được các mục tiêu đã đề ra ở trong nghị quyết của Đảng là 30% vì tỷ lệ vẫn mới chỉ đạt 26%. Một số chỉ tiêu khác như chỉ tiêu 95% bộ, cơ quan bộ ngang bộ, UBND các cấp có nữ lãnh đạo chủ chốt thì đến nay chúng ta mới thực hiện được 40%.

Hay phụ nữ tham gia cấp Ủy thì so với mục tiêu đặt ra còn xa. Mục tiêu đặt ra là 25% thì ở cấp xã cao nhất mới là 19,7%, tỉnh 13,3%, huyện 14,3%.

Tôi cho rằng, nỗ lực, cam kết của Đảng, Nhà nước và các cấp cao nhất đã có, thể hiện qua các văn bản. Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam cũng có nhiều giải pháp nhưng kết quả đạt được vẫn chưa như mong muốn. Sự quan tâm với phụ nữ ở trên văn bản rất tốt, sự cam kết rất cao nhưng việc tổ chức thực hiện nó đòi hỏi các cấp, các ngành phải đồng bộ.

{keywords}

Nhà báo Ngọc Trang: Thưa bà Nguyễn Thị Thanh Hòa, bà có thể cho nói rõ hơn về nhiệm vụ và cơ chế phối hợp của của Hội bảo vệ trẻ em ?

Bà Nguyễn Thị Thanh Hòa: Nhiệm vụ của Hội đã được quy định ở trong Luật trẻ em, đó là:

Một là, phải thu thập được thông tin và kiến nghị của trẻ em, của các tổ chức xã hội chuyển đến các cơ quan tổ chức Nhà nước để góp ý tư vấn về việc xây dựng và thực hiện chính sách pháp luật liên quan đến trẻ em. Việc này rất quan trọng. Bởi vì để luật đi vào cuộc sống phải có tiếng nói của trẻ em tham gia đóng góp.

Hai là, tham gia giám sát việc thực hiện pháp luật, chính sách pháp luật về quyền trẻ em, tôi cho rằng đây là chức năng quan trọng. Chẳng hạn, các cơ quan bộ ngành như Bộ LĐTB&XH, Uỷ ban Giáo dục Văn hóa Thanh thiếu niên nhi đồng của Quốc hội mời thì chúng tôi tham gia giám sát. Hoặc chúng tôi phối hợp giám sát với các tổ chức chính trị xã hội như hội phụ nữ, đoàn thanh niên.

Ba là, phát biểu chính kiến và kiến nghị của Hội, thể hiện rõ quan điểm trong các việc xây dựng chính sách pháp luật.

Bộ LĐTB&XH mà trực tiếp là Cục trẻ em mà đồng chí Cục trưởng đây cũng đánh giá rất cao vai trò tham gia của Hội, tạo điều kiện hết sức để làm sao Hội có thể tham gia, thực hiện được tốt nhiệm vụ đã ghi ở trong luật.

Giảm bất bình đẳng về cơ hội tiếp cận

Nhà báo Ngọc Trang: Độc giả Huyền Thương có câu hỏi dành cho ông Đặng Hoa Nam. Thưa ông, trẻ em khuyết tật là đối tượng yếu thế trong xã hội. Mặc dù Luật trẻ em có nhắc đến nhưng nhiều trường hợp chưa được quan tâm đúng mức. Ví dụ trường hợp những trẻ em mắc chứng tự kỷ. Trong thời gian tới đây Cục trẻ em có kế hoạch hay chương trình gì để thúc đẩy quyền trẻ em cho đối tượng trẻ em này không?

Ông Đặng Hoa Nam: Trẻ khuyết tật là 1 trong 14 nhóm đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt, đã là trẻ có hoàn cảnh đặc biệt thì cần phải có sự hỗ trợ rất là đặc biệt của gia đình, Nhà nước, của xã hội để đảm bảo các em đảm bảo được thực hiện đầy đủ các quyền của mình.

Luật người khuyết tật, các chính sách khác đối với người khuyết tật đều có chính sách hỗ trợ cho người khuyết tật đặc biệt là trẻ em.

Tuy nhiên chúng tôi cũng phải chia sẻ, điều kiện phát triển kinh tế xã hội đất nước ta còn hạn chế, nguồn chi ngân sách hàng năm, đặc biệt là chi ngân sách cho bảo trợ xã hội cũng chưa đủ sức để có thể bao phủ tất cả những đối tượng thuộc diện bảo trợ xã hội hay thuộc nhóm đối tượng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt nói chung.

Do đó, hiện nay mới chỉ có trẻ em khuyết tật ở dạng nặng, đặc biệt nặng và gắn với các hộ gia đình nghèo, cận nghèo thì có các chính sách hỗ trợ của nhà nước. Tuy nhiên, Luật trẻ em có quy định là tùy theo mức độ phát triển kinh tế xã hội thì Nhà nước sẽ từng bước mở rộng định mức hỗ trợ, đối tượng hỗ trợ, độ tuổi hỗ trợ đối với trẻ em. Việc này đã và đang được thực hiện.

Trong thời gian sắp tới, bộ LĐTB&XH và Cục trẻ em sẽ tiếp tục tham mưu để khi kinh tế xã hội phát triển hơn, phúc lợi xã hội tốt hơn thì trẻ em, trong đó có trẻ em khuyết tật sẽ là đối tượng được ưu tiên hưởng lợi.

Quay trở lại đối tượng trẻ em bị mắc rối nhiễu phổ tự kỉ, hiện nay chúng ta có thể coi đây là một đối tượng trẻ em khuyết tật. Tuy nhiên chúng ta còn một số vướng mắc ở trong việc xác định mức độ khuyết tật của các em.

Phó thủ tướng Chính phủ Võ Đức Đam là Chủ tịch Ủy ban quyền trẻ em, tại phiên họp vào tháng 3/2019 cũng đã giao trách nhiệm, nhiệm vụ cho Bộ Y tế phải chủ trì phối hợp với các cơ quan bộ ngành có liên quan để làm sao có tiêu chí xác định mức độ khuyết tật về mặt tâm thần của các đối tượng trẻ em nói chung trong đó có trẻ em rối nhiễu phổ tự kỉ.

Căn cứ trên mức độ xác định như vậy, bộ LĐTB&XH sẽ xây dựng các định mức, mức hỗ trợ cho phù hợp.

Cục trẻ em chúng tôi đã tham gia rất nhiều diễn đàn để hướng dẫn các bậc cha mẹ làm sao chọn cho con các dịch vụ tốt cũng như lắng nghe kiến nghị của các bậc cha mẹ để có những tham mưu về mặt chính sách một cách tốt nhất.

Tôi tin rằng trong thời gian sắp tới Bộ Y tế, Bộ LĐTB&XH, Bộ GD&ĐT và các bộ có liên quan sẽ quan tâm hơn đến các đối tượng này để đề xuất những chính sách cũng như mức độ hỗ trợ phù hợp nhất.

Nhà báo Ngọc Trang: Thưa hai vị khách mời, Quốc hội vừa mới thông qua nghị quyết về đề án tổng thể phát triển kinh tế xã hội đồng bào DTTS giai đoạn 2021-2030. Trong đó bình đẳng giới và giải quyết các vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ, trẻ em là nội dung được bổ sung vào Đề án sau những ý kiến đề xuất.

Việc thực hiện bình đẳng giới và giải quyết những vấn đề cấp thiết đối với phụ nữ và trẻ em có đặc thù gì với vùng đồng bào DTTS&MN. Ông, bà đánh giá đâu là vấn đề cấp thiết nhất cần tập trung?

Ông Đặng Hoa Nam: Về trẻ em mục tiêu mang tầm chiến lược quan trọng nhất làm sao giảm bất bình đẳng về cơ hội tiếp cận các chính sách dịch vụ giữa trẻ em vùng thành thị và các vùng nông thôn, vùng đồng bằng với trẻ em ở vùng sâu vùng xa, trẻ em miền núi và nhóm DTTS.

Trong tham mưu chính sách chúng tôi đặt ra là giai đoạn 2021-2025 và đến 2030, các chiến lược để phát triển trẻ em sẽ phải thể hiện tinh thần nghị quyết Quốc hội thời gian vừa qua đối với đồng bào vùng DTTS&MN nói chung trong đó có trẻ em.

Mặt khác, không đợi đến khi Quốc hội có nghị quyết, Chính phủ đã từng bước có chính sách để hỗ trợ đối tượng trẻ em ở miền núi, đồng bào DTTS có cơ hội phát triển như trẻ em khác. Đặc biệt, Thủ tướng mới ra Quyết định số 588 về hỗ trợ, chăm sóc giáo dục cho các đối tượng trẻ em ở các vùng DTTS ở miền núi và các xã đặc biệt khó khăn.

{keywords}

Bà Nguyễn Thị Thanh Hòa: Tôi thấy vấn đề chất lượng nguồn nhân lực nữ ở các vùng DTTS còn thấp. Tỉ lệ nữ DTTS học ở bậc THPT đúng độ tuổi mới chỉ 33%.

Vấn đề chất lượng sinh con tại nhà của phụ nữ DTTS cũng rất cao, tỉ lệ tử vong của trẻ dưới 5 tuổi, dưới 1 tuổi, tử vong mẹ cũng khá cao.

Đào tạo chuyên môn về kỹ thuật thì mới có 5,69% nữ và nam thì 6,5% tức là chỉ bằng 1/3 so với tỉ lệ tương ứng của người Kinh, đặc biệt là vấn đề tảo hôn và hôn nhân cận huyết thống ảnh hưởng rất nhiều đến nòi giống.

Vấn đề tham chính thì tỉ lệ nữ cán bộ công chức trong các cơ quan còn thấp, tham gia các vị trí lãnh đạo cũng còn thấp. Bạo hành gia đình ở các hộ DTTS trầm trọng hơn là ở các hộ gia đình người Kinh.

Do đó, vấn đề cấp thiết ở đây là làm sao nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cả về thể chất lẫn trí tuệ. Song song đó, làm sao lồng ghép giới vào tất cả các dự án của chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển bền vững kinh tế xã hội vùng đồng bào DTTS chứ không phải mình làm chỉ một dự án về bình đẳng giới.

Các vấn đề cấp thiết của phụ nữ thì nên giao cho Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam chịu trách nhiệm chủ trì dự án, phối hợp với các cơ quan liên quan, chứ để một cơ quan quản lý nhà nước làm sẽ rất khó.

Nhà báo Ngọc Trang: Một độc giả chia sẻ tình trạng tảo hôn ở trẻ em tại các khu vực miền núi diễn ra vẫn phổ biến nhưng 4 năm gần đây đã giảm đáng kể. Xin bà Thanh Hoà chia sẻ một số hoạt động mà Hội đã tham gia trong vấn đề này.

Bà Nguyễn Thị Thanh Hòa: Đây cũng là vấn đề của trẻ em. Các cháu ở vùng DTTS phải kết hôn sớm. Chúng tôi đã phối hợp với các bên liên quan để làm công tác tuyên truyền về pháp luật, tuyên truyền về các nội dung khác.

Cùng với đó tuyên truyền vận động cho các cháu đi học, có những hỗ trợ về học bổng đối với các cháu có nguy cơ bỏ học, nhất là các cháu gái vì tỉ lệ tảo hôn ở các cháu gái là cao hơn các cháu trai.

Cho nên phải làm sao để các cháu đi học và nhận thức được tương lai của mình. Có những cháu kể, đang đi học được gọi về để kết hôn. Vậy phải làm sao để các cháu có nhận thức là một, thứ hai các em cũng tự chủ tự đưa ra quyết định của cuộc sống của mình.

Nhà báo Ngọc Trang: Xin cảm ơn ông Đặng Hoa Nam và bà Nguyễn Thanh Hòa đã tham gia buổi giao lưu trực tuyến hôm nay và chia sẻ rất nhiều thông tin hữu ích.

VietNamNet thực hiện