- Ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát;
Khởi động mạnh mẽ tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng...
Thủ tướng nêu quyết sách trong Thông điệp đầu năm.
VietNamNet trân trọng giới thiệu bài viết trong đó Thủ tướng nêu bật nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 và nhiệm vụ năm 2011.
I. Tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế
1. Tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, giai đoạn 2001 - 2010,
chúng ta đã tạo được những xung lực mới cho quá trình phát triển. Mở
rộng dân chủ trong kinh tế với việc ban hành và thực hiện luật doanh
nghiệp, phát triển mạnh kinh tế dân doanh, đẩy mạnh cổ phần hóa doanh
nghiệp nhà nước, thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài; cải cách hành
chính mà khâu trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính; tham gia sâu
rộng vào tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực, gia nhập tổ chức thương
mại thế giới; nhờ đó, đã phát huy được tiềm năng và nội lực của đất
nước, tranh thủ được nguồn lực từ bên ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại. Trong 10 năm thực hiện Chiến lược 2001 - 2010,
mặc dù chịu ảnh hưởng của khủng hoảng khu vực và tác động tiêu cực của
khủng hoảng toàn cầu, nước ta đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức và
những biến động phức tạp của kinh tế thế giới, giành được những thành
tựu to lớn và rất quan trọng. Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội 2011 - 2020 đã trình bày khái quát những nét chủ yếu nhất về kết
quả đạt được cũng như những bất cập, yếu kém và rút ra những bài học sâu
sắc từ thực tiễn.
2. Chúng ta bước vào thời kỳ chiến lược mới trong bối cảnh thế giới thay
đổi nhanh và biến động rất khó lường. Các xu hướng nổi trội là:
(1) Sự phát triển nhảy vọt của khoa học và công nghệ; hình thành nền
kinh tế tri thức; sử dụng các công nghệ tiết kiệm nguyên liệu năng
lượng, thân thiện với môi trường; phát triển kinh tế xanh. Đây là động
lực chủ yếu, làm thay đổi cơ cấu kinh tế và cơ cấu thị trường toàn cầu,
thúc đẩy quá trình cải cách và tái cấu trúc kinh tế trong từng nước cũng
như sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữa các nước. Đón nhận quá trình này
một cách tự nhiên hoặc chủ động lựa chọn tuỳ thuộc vào năng lực nội
sinh và chính sách của mỗi nước.
(2) Toàn cầu hóa và liên kết kinh tế ngày càng sâu rộng, thúc đẩy quá
trình quốc tế hóa sản xuất và phân công lao động, hình thành mạng sản
xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Trong bối cảnh đó, cạnh tranh diễn ra
ngày càng gay gắt. Xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ có tính cạnh
tranh cao trở thành thách thức kinh tế lớn nhất đối với nước ta trong
thập kỷ tới.
(3) Vai trò ngày càng tăng của các nền kinh tế mới nổi, nhất là sự phát
triển mạnh mẽ cuả Ấn Độ và Trung Quốc làm thay đổi cán cân quyền lực
kinh tế - chính trị trên thế giới. Với vị thế địa chiến lược trọng yếu,
ASEAN hội nhập ngày càng sâu rộng, tạo thuận lợi cho sự phát triển của
các nước thành viên và khẳng định vai trò chủ đạo trong một cấu trúc khu
vực đang định hình. Tuy nhiên, khu vực này cũng là nơi tiềm ẩn những
nguy cơ có thể ảnh hưởng đến sự ổn định và phát triển của nước ta cũng
như các nước trong khu vực.
Sau khủng hoảng, quá trình phục hồi kinh tế thế giới diễn ra chậm chạp
và đầy mâu thuẫn; khủng hoảng nợ công lan rộng và nguy cơ của cuộc chiến
tranh tiền tệ chưa phải đã được loại trừ. Trong bối cảnh đó, sự điều
chỉnh chính sách của các nước, nhất là các nước lớn làm cho độ rủi ro và
tính bất định tăng lên.
Song song đó, tình trạng suy thoái môi trường, biến đổi khí hậu nhất là
nước biển dâng mà nước ta là một trong số ít nước chịu tác động nặng
nhất, có thể là biến số lớn trong tiến trình phát triển của đất nước.
Chưa bao giờ bối cảnh quốc tế lại chi phối nhiều đến sự phát triển của
nước ta với tất cả những thách thức và cơ hội to lớn như vậy. Chúng ta
sẽ phải làm gì và ở vị thế nào trong sự vận động phức tạp này.
Dự thảo Chiến lược xác định các quan điểm làm căn cứ để lựa chọn mục
tiêu và đề ra các định hướng phát triển cho giai đoạn 2011 - 2020 phù
hợp với tình hình trong nước và bối cảnh quốc tế, bảo đảm tính thống
nhất với mục tiêu dài hạn trong dự thảo Cương lĩnh.
II. Bước tiến mới về tư duy phát triển
1. Về các quan điểm phát triển
Quan điểm phát triển bền vững trong dự thảo Chiến lược lần này mang một
nội hàm mới, thể hiện sự gắn kết chặt chẽ giữa phát triển nhanh với phát
triển bền vững, coi phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong
Chiến lược; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với
phát triển các lĩnh vực văn hóa xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội và bảo vệ môi trường; đặt yêu cầu bảo đảm tốc độ tăng trưởng
nhanh, rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước, đồng thời khắc phục
tư tưởng chạy theo tốc độ mà không chú ý đúng mức đến chất lượng tăng
trưởng.
Thủ tướng: Luôn coi trọng và thực
hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, đối ngoại, tạo môi trường hòa
bình ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Ảnh: Cổng TTĐT Chính phủ
Trong tiến trình đổi mới 25 năm qua, Đảng ta bắt đầu từ đổi mới kinh tế,
lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, nhằm giải phóng các nguồn lực của
đất nước. Điều này là cần thiết và đúng đắn. Tuy nhiên, khi đổi mới kinh
tế đã đạt được những thành tựu to lớn, các quan hệ kinh tế đã có sự
thay đổi cơ bản, cần thiết phải tiến hành đồng thời đổi mới kinh tế với
đổi mới chính trị để thúc đẩy đổi mới toàn diện. Điều này thể hiện nhận
thức đúng đắn của Đảng ta về bước đi và biện chứng phát triển của tiến
trình đổi mới. Dự thảo Chiến lược nêu “đổi mới đồng bộ, phù hợp về kinh
tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Lấy việc thực hiện mục
tiêu này làm tiêu chuẩn cao nhất để đánh giá hiệu quả của quá trình đổi
mới và phát triển”. Trọng tâm của đổi mới chính trị là hoàn thiện nội
dung và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, gắn quyền hạn với trách
nhiệm trong thực hiện chức năng lãnh đạo của các cấp ủy đảng; mở rộng
dân chủ trong Đảng và trong toàn xã hội nhằm phát huy vai trò chủ động
của các cơ quan nhà nước, khả năng sáng tạo to lớn của nhân dân, sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước.
Chúng ta đang sống trong thời đại toàn cầu hóa mà cạnh tranh kinh tế
diễn ra rất quyết liệt. Mỗi nước đều tìm cách khai thác tốt nhất các lợi
thế so sánh sẵn có, chuyển lợi thế so sánh thành lợi thế cạnh tranh,
đồng thời, tạo lập các lợi thế cạnh tranh mới. Tài nguyên thiên nhiên,
vị trí địa kinh tế là những lợi thế so sánh sẵn có, tuy rất quan trọng
nhưng không phải là quyết định nhất. Thực tiễn đã khẳng định nguồn lực
con người là yếu tố nội sinh năng động, quyết định lợi thế cạnh tranh
dài hạn của một quốc gia. Điều này đặc biệt đúng trong điều kiện khoa
học công nghệ - sản phẩm trí tuệ của con người phát triển nhảy vọt trong
thời đại chúng ta. Hơn nữa, mục tiêu phát triển kinh tế xét đến cùng là
vì con người, cho con người. Con người phát triển toàn diện, có đời
sống vật chất ấm no, đời sống tinh thần phong phú, có năng lực trí tuệ,
phát huy mọi khả năng sáng tạo trong sự nhận thức được cái tất yếu để có
thể làm chủ bản thân, làm chủ xã hội, vươn tới tự do. Dự thảo Chiến
lược nêu quan điểm“phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là
chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”; nhấn mạnh
yêu cầu nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ
quyền làm chủ, nhất là dân chủ trực tiếp để phát huy mạnh mẽ mọi khả
năng sáng tạo và bảo đảm sự đồng thuận cao trong xã hội, tạo động lực
phát triển đất nước.
“Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa học, công nghệ
ngày càng cao, đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, quan điểm này nhấn mạnh yêu cầu
mới, quan trọng của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Lực lượng
sản xuất phải dựa vào trình độ khoa học, công nghệ ngày càng cao, phản
ánh xu thế khoa học, công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, còn quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa phải bảo đảm “phát triển nhanh hài hoà các thành phần kinh
tế, các loại hình doanh nghiệp. Tăng tiềm lực và nâng cao hiệu quả của
kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật
chất quan trọng để Nhà nước điều tiết và định hướng nền kinh tế, góp
phần ổn định kinh tế vĩ mô. Phát triển kinh tế tập thể với nhiều hình
thức hợp tác đa dạng mà nòng cốt là hợp tác xã...”.
Kinh tế nhà nước không chỉ là doanh nghiệp nhà nước mà còn có các nguồn
lực khác do Nhà nước sở hữu gồm ngân sách nhà nước, đất đai, tài nguyên,
dự trữ quốc gia… Thông qua các chính sách phát triển và cơ chế điều
tiết, phân bổ hiệu quả, các nguồn lực này sẽ là nhân tố kích hoạt, định
hướng việc thực hiện chính sách cơ cấu và sự phát triển kinh tế - xã hội
nói chung. Vì vậy, khi nói kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo không
chỉ nói riêng nguồn lực vật chất mà phải đặt nó trong sự tác động của
chính sách, khả năng sử dụng hiệu quả nguồn lực của Nhà nước và cũng
không chỉ nói đến vai trò của kinh tế nhà nước trong phát triển kinh tế
mà phải đặt trong tổng thể phát triển kinh tế - xã hội nói chung. Điều
đó cũng đòi hỏi phải nhận thức và định vị lại nội dung hoạt động và cơ
chế quản lý doanh nghiệp nhà nước.
Cùng với việc xác định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, dự thảo
Chiến lược nhấn mạnh “Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các thành
phần kinh tế, khuyến khích phát triển các hình thức tổ chức sản xuất
kinh doanh với sở hữu hỗn hợp mà chủ yếu là các doanh nghiệp cổ phần để
loại hình kinh tế này trở thành phổ biến trong nền kinh tế, thúc đẩy xã
hội hoá sản xuất kinh doanh và sở hữu. Hoàn thiện cơ chế chính sách để
phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực của
nền kinh tế”.
Từ hội nhập kinh tế, các nước đang mở rộng hội nhập sang các lĩnh vực
khác như là một tiến trình khách quan. Để tích cực, chủ động và nâng cao
hiệu quả của tiến trình hội nhập quốc tế, chúng ta phải “Xây dựng nền
kinh tế độc lập tự chủ ngày càng cao trong điều kiện hội nhập quốc tế
ngày càng sâu rộng”. Nhấn mạnh quan điểm này là hết sức cần thiết trong
bối cảnh hiện nay. Tiềm lực kinh tế của đất nước, lực lượng doanh nghiệp
trong nước có mạnh, nền kinh tế mới vững, vị thế trong hội nhập mới
cao. Càng hội nhập có hiệu quả, chúng ta càng có điều kiện thuận lợi để
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ.
2. Về mục tiêu Chiến lược và các khâu đột phá
Dự thảo Chiến lược đề ra mục tiêu tổng quát “Phấn đấu đến năm 2020 nước
ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị - xã
hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất
và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc
tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn
trong giai đoạn sau”.
Lấy phát triển kinh tế làm trung tâm, mục tiêu tổng quát và các mục tiêu
cụ thể nêu trong Dự thảo thể hiện sự thống nhất giữa kinh tế, xã hội
với chính trị, quốc phòng, an ninh; gắn kết nhiệm vụ trung hạn với yêu
cầu phát triển dài hạn, trở thành “Cương lĩnh thứ hai của Đảng” nhằm
triển khai nhiệm vụ trong giai đoạn đầu thực hiện Cương lĩnh.
Để đạt được mục tiêu tổng quát và các mục tiêu cụ thể, phải tiến hành
đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó phải chọn đúng các khâu đột phá -
những khâu hiện đang là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển mà nếu
giải quyết tốt các khâu này sẽ tạo ra những tiền đề giải phóng mọi tiềm
năng, khai thác có hiệu quả các nguồn lực cho phát triển. Dự thảo lựa
chọn ba đột phá:
Một là, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách
hành chính. Ưu điểm của kinh tế thị trường là phân bổ nguồn lực một cách
hợp lý theo tín hiệu thị trường và do đó làm tăng hiệu quả chung của
nền kinh tế. Kinh tế thị trường chỉ có thể được hoàn thiện khi các yếu
tố, các loại thị trường được hình thành đồng bộ trong một môi trường
cạnh tranh bình đẳng. Cạnh tranh là đặc tính vốn có của kinh tế thị
trường. Thông qua cạnh tranh, các doanh nghiệp buộc phải tìm cách giảm
chi phí, nâng cao năng suất - yếu tố xét đến cùng quyết định thắng lợi
của một phương thức sản xuất, một chế độ xã hội. Kinh tế thị trường luôn
được vận hành thông qua các thể chế và thủ tục hành chính. Vì vậy, hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường phải gắn với đẩy mạnh cải cách hành
chính, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp. Mặt khác,
kinh tế thị trường mà chúng ta xây dựng là kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, trong đó phát triển kinh tế phải kết hợp hài hoà với
phát triển các lĩnh vực văn hoá xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội trong từng bước và từng chính sách phát triển. Vì vậy, Nhà nước
phải có chính sách cơ cấu hợp lý, sử dụng hiệu quả các công cụ điều tiết
nhằm khắc phục những mặt trái của cơ chế thị trường.
Hai là, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục
quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và
ứng dụng khoa học, công nghệ. Con người là chủ thể sản xuất ra mọi sản
phẩm vật chất và tinh thần. Con người làm ra thể chế, phát triển và ứng
dụng khoa học, công nghệ, là lực lượng sản xuất quan trọng nhất. Vì vậy,
đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục quốc dân để phát triển mạnh
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá
chiến lược. Đây vừa là yêu cầu cấp bách vừa là nhiệm vụ lâu dài. Đặt yêu
cầu gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng
dụng khoa học, công nghệ là một nội dung mới, thể hiện tính hướng đích
của phát triển nguồn nhân lực. Chỉ với nguồn nhân lực có khả năng phát
triển và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất và quản lý mới tạo ra
năng suất cao để phát triển nhanh và bền vững.
Ba là, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ với một số công trình
hiện đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn. Kết
cấu hạ tầng là “đường dẫn” cho các yếu tố sản xuất dịch chuyển và là
điều kiện để phát triển văn hóa xã hội trên các vùng của đất nước. Sự
yếu kém của kết cấu hạ tầng đang là cản trở lớn đến sự phát triển kinh
tế - xã hội, làm tăng chi phí, giảm sức cạnh tranh, không phát huy được
tác động hội tụ và lan tỏa của các yếu tố nội sinh, không khai thác được
vị trí địa kinh tế nằm trong chuỗi cung toàn cầu của nước ta và là nguy
cơ làm gia tăng chênh lệch về mức sống giữa các vùng của đất nước.
Trong 10 năm tới, chúng ta phải huy động các nguồn lực để thực hiện khâu
đột phá này.
3. Về các định hướng phát triển
Trên cơ sở các quan điểm và mục tiêu tổng quát nêu trên, dự thảo Chiến
lược đề ra 12 định hướng phát triển, tạo nên một hệ thống đồng bộ các
giải pháp lớn trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường, quốc phòng,
an ninh và đối ngoại như một chỉnh thể của phát triển bền vững; bảo đảm
gắn kết hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Dưới đây, xin phân tích một số nội dung mới.
Có thể nói tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng,
phát triển các lĩnh vực xã hội hài hòa với phát triển kinh tế và bảo vệ
môi trường là những tư tưởng quan trọng nhất cũng là những nét mới trong
tư duy phát triển.
Tái cấu trúc nền kinh tế không phải chỉ được đặt ra khi có khủng hoảng.
Quá trình này diễn ra một cách tiệm tiến hoặc nhảy vọt theo sự phát
triển của khoa học, công nghệ và sự dịch chuyển lợi thế cạnh tranh giữa
các nước. Nội dung và nhịp độ của tái cấu trúc phụ thuộc vào tình hình
cụ thể của mỗi quốc gia. Đối với nước ta, tái cấu trúc nền kinh tế phải
diễn ra đồng thời trên các nội dung sau:
(1) Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế, tăng nhanh tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong tổng sản phẩm
quốc dân. Mặt khác, phải hết sức coi trọng vai trò có ý nghĩa chiến lược
lâu dài của nông nghiệp trong việc ổn định xã hội, bảo đảm an ninh
lương thực và cải thiện đời sống nông dân.
(2) Tái cấu trúc các ngành sản xuất và dịch vụ, trọng tâm là phát triển
công nghiệp hỗ trợ và các ngành dịch vụ chất lượng cao, có giá trị gia
tăng lớn, nhằm tạo ra nhiều sản phẩm có khả năng cạnh tranh để có thể
tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Đồng thời, phải
xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa với công nghệ cao nhằm
tăng giá trị gia tăng trên một đơn vị diện tích đất; gắn kết chặt chẽ
giữa áp dụng khoa học công nghệ với tổ chức sản xuất; giữa sản xuất, chế
biến với phân phối trong một chuỗi giá trị, bảo đảm hài hòa lợi ích
giữa các khâu trong chuỗi giá trị đó; giữa phát triển nông nghiệp với
xây dựng nông thôn mới.
(3) Tái cấu trúc các doanh nghiệp, tiếp tục đổi mới doanh nghiệp nhà
nước, phát triển mạnh kinh tế dân doanh. Song song đó, mỗi doanh nghiệp
phải tự tái cấu trúc để thích ứng với sự thay đổi về công nghệ và thị
trường nhằm tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả.
(4) Coi trọng hơn thị trường trong nước. Phát triển mạnh hệ thống phân
phối của các doanh nghiệp nước ta trên thị trường nội địa để có thể làm
chủ thị trường này, tạo cơ sở vươn xa, thâm nhập sâu vào thị trường thế
giới, mở rộng thị trường xuất khẩu, khai thác có hiệu quả các thị trường
có hiệp định mậu dịch tự do.
(5) Điều chỉnh cơ cấu và nâng cao hiệu quả đầu tư. Nhà nước tập trung
đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực và các công trình kết cấu hạ tầng
kinh tế, xã hội thiết yếu nhất, đồng thời đẩy mạnh huy động nguồn lực
của các thành phần kinh tế cho đầu tư phát triển. Khuyến khích đầu tư
vào các ngành sản xuất các sản phẩm có giá trị gia tăng lớn, các ngành
công nghiệp hỗ trợ, sử dụng công nghệ sạch. Hạn chế đầu tư vào các ngành
khai thác tài nguyên, sử dụng nhiều đất, tiêu hao nhiều năng lượng;
không chấp nhận những dự án đầu tư công nghệ thấp, gây ô nhiễm môi
trường.
Để thực hiện các nội dung tái cấu trúc trên đây, phải chuyển đổi mô hình
tăng trưởng từ chủ yếu theo chiều rộng dựa vào tăng vốn đầu tư, khai
thác tài nguyên và nguồn lao động chất lượng thấp sang mô hình tăng
trưởng theo chiều sâu trên cơ sở áp dụng những thành tựu mới về khoa
học, công nghệ, nguồn nhân lực chất lượng cao và kỹ năng quản lý hiện
đại. Các nhân tố này liên quan chặt chẽ với nhau và tích hợp tác động,
có vai trò quyết định trong việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tăng
năng suất lao động và sức cạnh tranh. Trong đó, khoa học và công nghệ là
động lực quyết định; con người đóng vai trò trung tâm, là chủ thể sáng
tạo và sử dụng khoa học, công nghệ, thực hiện chức năng quản lý. Có kỹ
năng quản lý hiện đại mới phát huy tối đa tác động của hai nhân tố trên.
Chuyển đổi mô hình tăng trưởng là đòi hỏi khách quan của quá trình phát
triển, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh gay gắt nhưng
không thể hành động theo ý muốn mà phải tạo ra các tiền đề và điều kiện
cho quá trình chuyển đổi. Những tiền đề và điều kiện đó chính là các đột
phá chiến lược. Chính vì vậy, trong thời kỳ chiến lược tới, nhất là
trong những năm đầu, phải tập trung giải quyết các khâu đột phá, kết hợp
hợp lý giữa tăng trưởng theo chiều rộng với tăng trưởng theo chiều sâu,
theo hướng chuyển mạnh sang chiều sâu.
Tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng là công việc
đòi hỏi sự nỗ lực của các ngành, các cấp, của cộng đồng doanh nghiệp.
Trong đó, Nhà nước đóng vai trò mở đường và hỗ trợ còn doanh nghiệp là
chủ thể, lực lượng chủ công của tiến trình này.
Văn hóa xã hội là lĩnh vực rộng lớn có nhiều nội dung gắn kết tương tác
lẫn nhau, tác động mạnh đến kinh tế và mọi mặt của đời sống, đến từng
con người và cả cộng đồng. Văn hóa hình thành nên hệ giá trị của một
quốc gia, tạo ra bản sắc của một dân tộc, là yếu tố quan trọng trong tư
duy phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói “văn hoá soi đường cho quốc
dân đi”. Dự thảo Chiến lược xác định “phát triển toàn diện các lĩnh vực
văn hóa xã hội hài hòa với phát triển kinh tế..., xử lý tốt mối quan hệ
giữa kinh tế và văn hóa để văn hóa thực sự là nền tảng tinh thần của xã
hội, là một động lực phát triển”, đặt yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện
nền giáo dục quốc dân để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Đây là một
điểm nhấn của dự thảo Chiến lược, góp phần khắc phục những bất cập, yếu
kém, tạo bước phát triển mới trên các lĩnh vực văn hoá, xã hội.
Trong nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm bảo đảm
an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cho nhân dân, đã có những văn bản quy
định về một số chính sách cụ thể. Dự thảo Chiến lược lần này đã đề cập
một hệ thống các quan điểm và chính sách tương đối đồng bộ và toàn diện
làm cơ sở cho việc phát triển một hệ thống an sinh xã hội và phúc lợi xã
hội hiệu quả, bền vững.
Thể hiện nhận thức đầy đủ hơn về nguy cơ ô nhiễm môi trường, biến đổi
khí hậu và nước biển dâng đối với sự phát triển bền vững, dự thảo Chiến
lược trình bày phương hướng cơ bản và các chỉ tiêu cụ thể về bảo vệ và
cải thiện môi trường, nhấn mạnh yêu cầu bảo vệ môi trường trong chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của từng ngành, địa phương, trong
từng dự án; đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường và phát triển
các dịch vụ môi trường. Chủ động triển khai chương trình ứng phó với
biến đổi khí hậu, nhất là nước biển dâng; tăng cường hợp tác quốc tế
trong hoạt động có tính toàn cầu này.
4. Về nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước
Để thực hiện thắng lợi Chiến lược với những nội dung chủ yếu nêu trên,
phải không ngừng hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ. Dự thảo Chiến lược đã thể hiện nhận thức sâu sắc hơn về
mối quan hệ giữa ba thành tố của cơ chế này trong điều kiện Đảng ta là
đảng duy nhất cầm quyền và có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đảng
lãnh đạo để nhân dân làm chủ, Đảng lãnh đạo chủ yếu bằng Nhà nước và
thông qua Nhà nước. Trong cơ chế đó, nhân dân ủy nhiệm cho Nhà nước thực
hiện quyền lực quản lý với chức năng cơ bản là tạo môi trường cho sự
phát triển và phục vụ sự phát triển. Phải đặt yêu cầu tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng trong mối quan hệ với việc nâng cao hiệu lực hiệu quả quản
lý của Nhà nước và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Dự thảo xác
định các chức năng quản lý và kiến tạo phát triển của Nhà nước, mối quan
hệ giữa Nhà nước và thị trường; đề ra các giải pháp đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực hiệu quả quản lý của Nhà nước;
nhấn mạnh yêu cầu phát huy vai trò của Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam, các tổ
chức chính trị - xã hội và quyền làm chủ của nhân dân trong việc xây
dựng Đảng, xây dựng Nhà nước. Cùng với việc hoàn thiện các thiết chế
thực hiện dân chủ, tăng cường dân chủ trực tiếp, Dự thảo đề cao vai trò
phản biện xã hội, trách nhiệm giải trình của cơ quan nhà nước các cấp.
Thông qua phản biện xã hội và trách nhiệm giải trình mà góp phần hoàn
thiện chính sách và nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý.
III. TẠO SỰ CHUYỂN BIẾN MẠNH MẼ TRONG NĂM ĐẦU THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC
Những quan điểm và định hướng của Chiến lược 2011 - 2020 phải được thể
hiện ngay trong Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011. Chính phủ
đã báo cáo và Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội năm năm 2011. Nghị quyết đã nêu toàn diện mục tiêu,
nhiệm vụ và các giải pháp lớn. Sau đây là những nhiệm vụ trọng tâm của
năm 2011.
1. Ổn định kinh tế vĩ mô, kiềm chế lạm phát
Chúng ta thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2011 trong
bối cảnh kinh tế thế giới được dự báo tăng trưởng chậm hơn, giá cả hàng
hóa tăng cao hơn năm 2010, khủng hoảng nợ công trong khu vực đồng euro
có nguy cơ lan rộng, đồng đôla Mỹ - đồng tiền chủ yếu trong thanh toán
quốc tế bị giảm giá, giá vàng tăng, làm thay đổi các kênh đầu tư, gây
biến động lớn thị trường tài chính quốc tế.
Ở trong nước, năm 2010 kinh tế phục hồi và đạt tốc độ tăng trưởng khá
cao (6,78%), xuất khẩu tăng nhanh (25,5%), nhập siêu chỉ còn bằng 17,3%
kim ngạch xuất khẩu, thâm hụt cán cân thanh toán tổng thể giảm mạnh. Tuy
nhiên, lạm phát và lãi suất tăng cao, tỷ giá biến động, gây sức ép đến
ổn định kinh tế vĩ mô, sản xuất kinh doanh khó khăn và đe doạ tăng
trưởng bền vững. Trước tình hình đó, năm 2011 phải tập trung sức để tăng
cường ổn định kinh tế vĩ mô và kiểm soát lạm phát, coi đây là nhiệm vụ
trọng tâm.
Phải giảm bớt chênh lệch giữa tiết kiệm và đầu tư; kiên quyết cắt giảm
các công trình chưa thực sự cần thiết, tập trung nguồn lực cho các dự án
tạo ra năng lực sản xuất và năng lực xuất khẩu mới, các công trình kết
cấu hạ tầng kinh tế, xã hội thiết yếu, sớm đưa vào sử dụng; giảm bội chi
ngân sách và thâm hụt cán cân thương mại, kiềm chế tốc độ tăng giá.
Thực tiễn những năm qua, cho thấy, chính sách vĩ mô phải chuyển những
thông điệp rõ ràng nhằm tạo niềm tin cho thị trường và định hướng cho
sản xuất kinh doanh. Phải theo sát sự vận động của kinh tế thế giới và
trong nước; nâng cao năng lực dự báo, chủ động, nhạy bén trong phản ứng
chính sách; linh hoạt sử dụng phù hợp các công cụ của chính sách tiền tệ
theo nguyên tắc thị trường, hạn chế sử dụng các biện pháp hành chính
khi không thực sự cần thiết; nâng cao hiệu quả bình ổn và điều hòa nguồn
vốn giữa các tổ chức tín dụng của thị trường liên ngân hàng; kết hợp
chặt chẽ chính sách tài khoá với chính sách tiền tệ để ổn định kinh tế
vĩ mô và kiềm chế lạm phát. Tăng cường giám sát hoạt động của các tổ
chức tín dụng, các công ty chứng khoán, các quỹ đầu tư, bảo đảm kinh
doanh trung thực, tuân thủ các tiêu chuẩn an toàn.
2. Khởi động mạnh mẽ quá trình tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng
Tập trung hoàn thiện thể chế, tạo lập thị trường đất đai lành mạnh trên
nguyên tắc đất đai là công thổ quốc gia và là tư liệu sản xuất chủ yếu
của nông dân. Nhà nước và người giao lại quyền sử dụng đất phải là những
đối tượng được hưởng lợi chủ yếu từ việc chuyển giao quyền sử dụng đất.
Đây là nguyên tắc cơ bản để hình thành chính sách và thị trường đất
đai.
Đẩy nhanh tiến trình đổi mới doanh nghiệp nhà nước. Việc đổi mới doanh
nghiệp nhà nước tuy là một nội dung của tái cấu trúc doanh nghiệp nhưng
lại là điều kiện để tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các
thành phần kinh tế - một tiêu chí của kinh tế thị trường. Phương hướng
và nội dung chủ yếu của đổi mới doanh nghiệp nhà nước là đẩy mạnh cổ
phần hoá và cải cách các tập đoàn, tổng công ty nhà nước. Các tập đoàn
và tổng công ty nhà nước cần tập trung vào một số lĩnh vực chủ yếu của
nền kinh tế quốc dân, phải chuyển từ hoạt động đa dạng sang chuyên môn
hoá nhằm thực hiện chính sách cơ cấu; đẩy mạnh đổi mới và sáng tạo, nâng
cao hiệu quả và tạo lập năng lực cạnh tranh dài hạn để có thể tham gia
vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu. Điều quan trọng là phải đặt
doanh nghiệp nhà nước vào môi trường cạnh tranh và quy định các chỉ
tiêu chất lượng hoạt động của doanh nghiệp. Cải cách cơ chế và tổ chức
nhằm nâng cao trách nhiệm và hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước và quản
lý của chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Thực hiện chế độ kiểm
toán bắt buộc và công khai kết quả kiểm toán.
Năm 2011, phải triển khai mạnh mẽ chương trình phát triển công nghiệp hỗ
trợ, coi đây là một nội dung trọng tâm của tái cấu trúc các ngành sản
xuất công nghiệp. Khẩn trương hoàn chỉnh cơ chế, chính sách phát triển
và tổ chức quản lý công nghiệp hỗ trợ. Tạo sự gắn kết giữa các doanh
nghiệp chế tạo với doanh nghiệp lắp ráp, các doanh nghiệp trong nước với
các nhà đầu tư nước ngoài trong việc lựa chọn và phát triển công nghiệp
hỗ trợ theo cụm nhóm sản phẩm trên cơ sở thị trường có sự định hướng
của Nhà nước, tập trung vào một số sản phẩm cơ khí, thiết bị điện, điện
tử, sản phẩm công nghệ thông tin... Khuyến khích các nhà đầu tư nước
ngoài đầu tư phát triển công nghiệp hỗ trợ.
Phát triển mạnh các ngành dịch vụ có giá trị gia tăng cao, có tác động
lan toả rộng như dịch vụ du lịch, dịch vụ phân phối, vận tải, dịch vụ
logistics và các dịch vụ cảng biển, nhằm tận dụng vị thế địa kinh tế của
nước ta trong chuỗi cung toàn cầu. Hoàn thiện cơ chế quản lý nhằm thúc
đẩy dịch vụ tài chính và kinh doanh bất động sản phát triển lành mạnh.
Triển khai chương trình quốc gia phát triển công nghệ thông tin, phấn
đấu đến năm 2020 đưa Việt Nam thành nước mạnh về công nghệ thông tin.
Nhận thức đầy đủ hơn vai trò quan trọng có tính chiến lược của nông
nghiệp trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, triển
khai mạnh mẽ thực hiện Nghị quyết Trung ương 7 về nông nghiệp, nông dân
và nông thôn. Đẩy mạnh việc thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn
mới. Nhà nước tăng đầu tư đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp phát
triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội ở nông thôn, đầu tư phát triển
công nghệ sinh học, công nghiệp chế biến nhằm tạo ra các sản phẩm có
năng suất cao, chất lượng tốt, có khả năng cạnh tranh. Tăng cường công
tác kiểm tra theo các tiêu chuẩn an toàn và vệ sinh thực phẩm từ sản
xuất, chế biến, lưu thông đến tiêu dùng. Đầu tư mạnh hơn cho hệ thống
bảo quản, dự trữ để giảm hao hụt, bảo đảm chất lượng hàng hóa, điều hoà
cung cầu, ổn định giá cả.
3. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp đầu tư, phát triển sản xuất kinh doanh và mở rộng thị trường,
tập trung vào các nhiệm vụ sau đây:
Hoàn thiện cơ chế chính sách về đầu tư để huy động các nguồn lực cho đầu
tư phát triển và nâng cao hiệu quả đầu tư; mở rộng các hình thức đầu tư
theo cơ chế BOT, BT, khẩn trương ban hành quy định về hợp tác công - tư
(PPP) để phát triển hệ thống giao thông, nhất là các công trình lớn.
Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong đầu tư, xác lập quyền sử dụng
đất, thủ tục hải quan, thuế, nhằm giảm chi phí kinh doanh cho doanh
nghiệp.
Cải thiện khả năng tiếp cận vốn của doanh nghiệp. Hướng mạnh hoạt động
của Ngân hàng phát triển vào việc hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ; tăng
nguồn kinh phí bảo lãnh tín dụng và năng lực thẩm định dự án được bảo
lãnh của Ngân hàng này. Ưu tiên nguồn tín dụng cho các sản phẩm trọng
điểm. Nghiên cứu việc phân bổ hạn mức tín dụng cho các khu vực doanh
nghiệp theo mức đóng góp vào GDP và kim ngạch xuất khẩu.
Phát triển các dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp. Đẩy mạnh các hoạt động xúc
tiến thương mại, mở rộng thị trường nước ngoài, tăng nhanh kim ngạch
xuất khẩu. Tăng cường kiểm tra chất lượng các mặt hàng nhập khẩu, bảo vệ
người tiêu dùng và khuyến khích sản xuất trong nước. Coi trọng hơn thị
trường nội địa, nhất là thị trường nông thôn. Đẩy mạnh cuộc vận động
người Việt Nam dùng hàng Việt Nam.
4. Phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội, tập trung giải quyết những vấn đề bức xúc
Xây dựng và triển khai có hiệu quả Chiến lược an sinh xã hội 2011 -
2020, Chương trình giảm nghèo bền vững và chương trình việc làm giai
đoạn 2011 - 2015; phấn đấu để năm 2011 tỷ lệ hộ nghèo giảm 2% theo chuẩn
mới; phát triển các loại hình bảo hiểm, mở rộng mạng lưới an sinh xã
hội.
Hoàn thiện chính sách khám chữa bệnh, chính sách viện phí. Đẩy nhanh
tiến độ xây dựng các bệnh viện từ nguồn vốn Nhà nước, khuyến khích các
thành phần kinh tế đầu tư xây dựng bệnh viện; tăng cường đưa bác sỹ về
các bệnh viện tuyến huyện và các xã, bảo đảm sự đồng bộ giữa cơ sở vật
chất, trang thiết bị với đội ngũ thầy thuốc sử dụng các trang thiết bị,
cải thiện chất lượng khám chữa bệnh ở các bệnh viện tuyến dưới, giảm tải
cho các bệnh viện tuyến trên. Tăng cường quản lý nhà nước về thuốc chữa
bệnh, về bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm.
Thực hiện các giải pháp đồng bộ để nâng cao chất lượng giáo dục; tiếp
tục thực hiện các đề án về giáo dục đào tạo đã được phê duyệt; coi trọng
chất lượng giáo dục phổ thông trên cả hai nội dung dạy chữ và rèn luyện
nhân cách, dạy làm người. Trên cơ sở bảo đảm đội ngũ giáo viên, điều
kiện dạy và học để mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục đại
học và cao đẳng; triển khai xây dựng một số trường đại học chất lượng
cao theo chương trình hợp tác với các nước, các tổ chức quốc tế. Phát
triển mạnh đào tạo nghề với số lượng và cơ cấu phù hợp với nhu cầu thị
trường, chú trọng đào tạo nghề cho công nghiệp hỗ trợ. Phát triển nhanh
thị trường công nghệ. Ban hành các chính sách khuyến khích doanh nghiệp
ứng dụng và đổi mới công nghệ nhằm thúc đẩy quá trình tái cấu trúc nền
kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng.
Tiếp tục đẩy mạnh phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa” đi vào chiều sâu, đạt hiệu quả thiết thực, hướng mạnh vào xây dựng
văn hóa trong ứng xử, bài trừ các hủ tục mê tín dị đoan, làm cho văn hóa
thấm sâu vào hành vi và nếp sống của mỗi người Việt Nam.
Làm tốt công tác tuyên truyền để nâng cao ý thức của người dân và doanh
nghiệp trong việc bảo vệ môi trường. Tăng cường kiểm tra, thanh tra và
xử lý nghiêm những vi phạm pháp luật. Triển khai Chương trình mục tiêu
và Kế hoạch hành động quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là
nước biển dâng, các chương trình nâng cấp đê biển, đê sông, các giải
pháp chống ngập úng cho các thành phố lớn; ứng phó có hiệu quả với thiên
tai bão lũ.
Đề cao trách nhiệm của các tổ chức Đảng và chính quyền các cấp; phát huy
vai trò của Mặt trận, các đoàn thể, nhân dân và báo chí trong cuộc đấu
tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí. Thực hiện có hiệu quả các chương
trình phòng chống tội phạm và các tệ nạn xã hội; bảo đảm trật tự an
toàn giao thông.
5. Đẩy mạnh hoàn thiện thể chế quản lý trên nguyên tắc bảo đảm quyền dân
chủ của nhân dân và thúc đẩy hình thành đồng bộ các yếu tố của kinh tế
thị trường
Rà soát lại hệ thống phân cấp, bảo đảm tăng cường sự quản lý thống nhất của trung ương về quy hoạch phát triển, khai thác tối đa lợi thế so sánh theo tầm nhìn liên vùng nhằm tiết kiệm nguồn lực và bảo đảm quy mô kinh tế; đồng thời, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm của địa phương, cơ sở. Chuẩn bị tốt việc bầu cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân và kiện toàn chính quyền các cấp nhiệm kỳ mới theo yêu cầu xây dựng bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hiệu lực hiệu quả; lấy phục vụ nhân dân làm chức năng chủ yếu của chính quyền các cấp.
Cùng với những nhiệm vụ nêu trên, chúng ta phải luôn coi trọng và thực
hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, đối ngoại, tạo môi trường hòa bình ổn định để phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập
chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương phải dành sự quan tâm chỉ đạo tốt
công tác chuẩn bị đón Tết Nguyên đán Tân Mão, thực hiện đồng bộ các
giải pháp để bảo đảm nguồn hàng, kiểm soát giá cả, giữ vững an ninh trật
tự xã hội, bảo đảm an toàn giao thông; chăm lo cho người nghèo và các
đối tượng chính sách để mọi người dân đều được đón Tết vui tươi, lành
mạnh, tiết kiệm.
*
*
*
Thời gian vừa qua, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã sôi nổi đóng góp
ý kiến vào các dự thảo văn kiện trình Đại hội Đảng lần thứ XI. Chúng ta
tin tưởng chắc chắn rằng Đại hội sẽ đề ra một Chiến lược đáp ứng được
yêu cầu phát triển của đất nước. Tổ chức thực hiện tốt Chiến lược mà
trước hết là thực hiện thắng lợi nhiệm vụ năm 2011 là việc làm thiết
thực đưa Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đi vào cuộc sống và thực hiện
điều căn dặn của Bác Hồ kính yêu trước khi Người đi xa là “Đảng cần phải
có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng
nâng cao đời sống của nhân dân”.
Nguyễn Tấn Dũng Thủ tướng Chính phủ