Trước mỗi hành vi của Trung Quốc, chúng ta có lí do để tin rằng, họ sẽ tiếp tục xây dựng các đảo nhân tạo ở Biển Đông.

LTS: Trong một bài viết đăng tải trên tờ The Jakarta Post hồi đầu năm nhan đề "Những diễn tiến đang lo ngại ở Biển Đông", Đại sứ Việt Nam tại Indonesia Hoàng Anh Tuấn đã chỉ rõ, những hành động trái ngược với tuyên bố của Trung Quốc đang phức tạp hóa tình hình ở Biển Đông cũng như đe dọa hòa bình, sự ổn định và an ninh trong khu vực Đông Nam Á.

Tuần Việt Nam xin trích đăng và đặt lại tiêu đề. Mời đọc giả cùng đọc và suy ngẫm.

Bước vào năm 2016, thế giới đã phải đối phó với nhiều thách thức đáng lo ngại, từ việc bùng phát đột ngột sự đối đầu giữa Iran và Arập Xêút tới cuộc thử nghiệm bom H của CHDCND Triều Tiên, cũng như các cuộc tấn công khủng bố ở Thổ Nhĩ Kỳ, Burkina Faso, Indonesia và Pakistan.

Bên cạnh đó là nhiều hành động chưa từng có tiền lệ, coi thường  công pháp quốc tế của Trung Quốc ngày càng gia tăng ở Biển Đông cũng tạo ra những mối quan ngại về an ninh tại khu vực then chốt, quan trọng nhất thế giới về địa - chiến lược.

Sau khi hoàn tất giai đoạn đầu xây-lắp các đảo nhân tạo phía trên các bãi đá và đá ngầm Trung Quốc đã chiếm đóng trái phép ở quần đảo Trường Sa, ngày 1/1 họ đã tiến hành các chuyến bay thử nghiệm trên Bãi Chữ Thập (Fiery Cross Reef) của Việt Nam. Động thái này càng thể hiện rõ âm mưu độc chiếm Biển Đông của Bắc Kinh.

Nghiêm trọng hơn, theo Cục quản lý hàng không dân dụng Việt Nam, các kế hoạch bay của Trung Quốc đã được thực hiện ngay trong Vùng thông báo bay (FIR) TP. Hồ Chí Minh thuộc quyền quản lý và điều hành của Việt Nam. Cục hàng không dân dụng Trung Quốc (CAAC) đã phớt lờ, không thông báo cho phía Việt Nam về các kế hoạch cũng như ý định này. Hành động vô cùng nguy hiểm này hàm ý rằng, Bắc Kinh không tuân thủ các quy định và thủ tục quá cảnh như thông lệ quốc tế.

{keywords}
Đảo nhân tạo Trung Quốc bồi đắp trái phép trên Biển Đông. Ảnh: CSIS

Từ 1 - 8/1, Trung Quốc cũng tiến hành 46 chuyến bay qua vùng FIR thuộc quyền quản lý của Việt Nam. Điều này không chỉ vi phạm chủ quyền của Việt Nam, mà còn vi phạm các quy định như Công ước về hàng không dân dụng quốc tế (Chicago, năm 1944) và các phụ lục của công ước liên quan đến những nguyên tắc về hàng không, đặc biệt là phụ lục 2 và phụ lục 11, đe dọa an toàn của các chuyến bay quốc tế qua khu vực, và cũng thể hiện rõ việc Trung Quốc ngang ngược dám quay lưng với các thỏa thuận quốc tế.

Không có gì rõ hơn rằng, các hành động của Trung Quốc ngày càng mâu thuẫn với các tuyên bố của nước này, rằng việc xây dựng các đảo nhân tạo ở Biển Đông không ảnh hưởng đến tự do và an toàn hàng hải cũng như hoạt động bay quá cảnh ở Biển Đông. Và rằng hòa bình và sự ổn định trong khu vực vẫn được bảo đảm.

Hãy thử tưởng tượng về các hậu quả của một vụ va chạm hàng không ở Biển Đông và tác động của một sự cố như vậy đối với sự an toàn, thương mại và an ninh khu vực.

Trung Quốc phải chấm dứt mọi hoạt động xây đảo nhân tạo

Các hoạt động gần đây của Trung Quốc ở Biển Đông cho thấy Bắc Kinh sẵn sàng mở rộng quy mô hoạt động của mình ở các vùng và xúc tiến những bước đi ngày càng nguy hiểm, công khai đi ngược lại các tuyên bố của họ về ước nguyện có một giải pháp hòa bình, hợp lẽ phải và thông qua đàm phán cho những vấn đề này.

Trung Quốc từ lâu thừa nhận Hải Nam là cực nam lãnh thổ của họ.

Trong khi đó, Việt Nam khẳng định chủ quyền lãnh thổ đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, ít nhất từ thế kỷ 17. Tại Hội nghị San Francisco vào tháng 9/1951, 50 trong số 51 nước tham dự không phản đối khi Thủ tướng Trần Văn Hữu của Quốc gia Việt Nam (một chính thể trong Liên bang Đông Dương thuộc Liên hiệp Pháp, tuyên bố chủ quyền toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, tồn tại trong giai đoạn từ giữa năm 1948 - 1955) xác nhận chủ quyền của Việt Nam đối với các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.

Trong cuộc chiến tranh Việt Nam 1957-1974, Trung Quốc đã tấn công và sau đó chiếm đóng phía tây và sau đó chiếm nốt đông của quần đảo Hoàng Sa.

Trung Quốc cũng từng phát động một cuộc chiến chớp nhoáng chiếm Đá Gạc Ma (Johnson Reef) và một số bãi đá và đảo nhỏ khác của Việt Nam vào năm 1988. Kể từ đó, họ liên tục xác lập sự hiện diện và duy trì việc chiếm đóng đối với cả quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa trong một nỗ lực nhằm thống trị toàn bộ vùng Biển Đông. Rất khó để Trung Quốc chối bỏ rằng nước này đang theo đuổi một cách tiếp cận kiểu "chủ nghĩa thực dân" hàng hải ở vùng biển này.

Việc Trung Quốc xây dựng và gia cố các đảo nhân tạo ở quần đảo Trường Sa đã đo ngược Tuyên bố chung về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC), vốn tập trung vào việc duy trì nguyên trạng và ngăn cản các hành động có thể làm phức tạp hơn nữa tình hình.

Hơn thế nữa, những hành động gần đây của Trung Quốc cũng lí giải tại sao các cuộc đàm phán giữa ASEAN và Trung Quốc xung quanh Bộ quy tắc ứng xử Biển Đông (COC) lại tốn nhiều thời gian mà không có tiến triển lớn nào.

Trước mỗi hành vi của Trung Quốc, chúng ta có lí do để tin rằng, họ sẽ tiếp tục xây dựng các đảo nhân tạo ở Biển Đông.

Các hành động hiện tại của Trung Quốc tại khu vực này rõ ràng đang đi ngược lại các cam kết mà họ đã tham gia.

Đại sứ Trung Quốc tại ASEAN, Xu Bu từng viết trên tờ The Jakarta Post bài báo nhan đề "Duy trì hòa bình và sự ổn định ở Biển Đông". Trong đó, ông ấy đã nói về việc khu vực này cần phải giải quyết vấn đề này không chỉ đơn thuần bằng lời nói.

Hành động cụ thể nhất mà Trung Quốc cần phải làm là chấm dứt mọi hoạt động xây dựng nhằm tạo ra các đảo nhân tạo và Trung Quốc cần phải ngừng các hành động thay đổi nguyên trạng và quân sự hóa Biển Đông.

Trung Quốc cần phải tuân thủ việc duy trì nguyên trạng và nhanh chóng chấm dứt việc xây dựng một sân bay trên Đá Chữ Thập, vì điều đó đe dọa chủ quyền của Việt Nam, hòa bình và ổn định trong khu vực cũng như tự do hàng hải và các chuyến bay quá cảnh qua vùng Biển Đông.

Quỳnh Anh (gt)