1. Corolla thế hệ thứ 5 (1983 - 1987)
Corolla E80 thế hệ thứ 5 ra đời như một sự phản ứng của Toyota đối với đối thủ cạnh tranh VW với mẫu xe Golf dẫn động cầu trước rất thành công. Đây là một bản nâng cấp mang tính cách mạng của Toyota với hệ dẫn động cầu trước, động cơ mạnh mẽ hơn và công nghệ tiên tiến, thiết kế thân xe hiện đại, khí động học. Quyết định chuyển sang nền tảng mới không chỉ giảm trọng lượng, cải thiện khả năng tiết kiệm nhiên liệu mà còn mở ra rất nhiều không gian bên trong, đặc biệt là cho hành khách và hàng hóa phía sau.
Tất nhiên, Toyota không chỉ cung cấp cho người mua thông thường các phiên bản FWD đáng tin cậy mà còn cung cấp phiên bản hot-hatch dẫn động cầu sau với động cơ 4A-GE 1.6 lít hút khí tự nhiên sản sinh công suất 124 mã lực. Với mẫu xe này, hãng xe đã thu hút sự chú ý của đông đảo người đam mê, điều chưa từng có ở 4 thế hệ đầu tiên.
Chiếc FWD Corolla dành cho thị trường đại chúng được ca ngợi vì sự thoải mái, thiết thực và tiết kiệm, ngay cả khi một số người cũng lưu ý rằng việc lái nó có thể hơi nhàm chán. Tuy nhiên, ở đời này đã bù đắp được nhiều điều hơn thế, mang đến cảm giác lái thú vị mà xe FWD vẫn không thể sánh được. Toyota cũng đã sử dụng động cơ 4A-GE trên FX-16, một chiếc hot-hatch ba cửa dẫn động cầu trước FWD. Nói một cách đơn giản, đã có một chiếc E80 Corolla dành cho tất cả mọi người - đủ lý do để nó đứng đầu danh sách này.
2. Corolla thế hệ thứ 12 (2018 đến nay)
Nhờ nền tảng TNGA (Toyota New Global Architecture) công nghệ tiên tiến, cảm giác lái đã được cải thiện đáng kể, mang lại sự thu hút cho mẫu xe. Toyota cũng đã thực hiện những cải tiến bên trong –- cabin của Corolla hiện tại cho cảm giác sang trọng hơn nhiều so với trước đây, với công nghệ và vật liệu tốt hơn. Không gian dành cho người ngồi phần lớn giống nhau, mặc dù vẫn có thể so sánh với các đối thủ và diện tích chở hàng đủ lớn cho một gia đình nhỏ.
Những nỗ lực của Akio Toyoda nhằm làm cho xe Toyota trở nên thú vị trở lại đã mang lại lợi ích lớn nhất ở đây. Cụ thể, công ty đã cung cấp một mẫu xe hatchback đẹp mắt ở Bắc Mỹ với hộp số sàn 6 cấp và động cơ 2.0 lít, công suất 169 mã lực, thu hút những người mua trẻ tuổi đến với thương hiệu. Đặc biệt ấn tượng là chiếc hatchback GR Corolla AWD. Với động cơ tăng áp 3 xi-lanh, dung tích 1.6 lít sản sinh 300 mã lực và hệ dẫn động lấy cảm hứng từ xe đua, GR Corolla đã tạo ra sự chấn động trong giới đam mê khi Toyota không thể cung cấp nhiều xe như người mua mong muốn.
May mắn thay, công ty đã lần đầu tiên cung cấp hệ truyền động hybrid cho chiếc sedan Corolla ở Bắc Mỹ. Corolla Hybrid có thể không mang lại cảm giác lái đặc biệt thú vị, nhưng nó chắc chắn mang lại hiệu quả cao với tổng mức tiêu thụ nhiên liệu là 4,7 l/100km. Corolla hiện tại giữ vị trí bán chạy nhất trên thế giới, với hơn 50 triệu chiếc được bán ra.
3. Corolla thế hệ thứ 7 (1991 đến 1997)
Mặc dù không có phiên bản hiệu suất nào của E100 và cũng không có phiên bản AWD. Tuy nhiên, E100 Corolla có ý nghĩa quan trọng vì nó kế thừa những cải tiến nổi trội của Lexus. Chỉ hai năm trước khi E100 ra mắt, Toyota đã giới thiệu Lexus LS400 (Toyota Celsior tại Nhật Bản), mẫu xe này đã phá vỡ phân khúc cao cấp và nhanh chóng trở thành mẫu sedan hạng sang bán chạy nhất ở Bắc Mỹ.
Học hỏi từ đội ngũ kỹ thuật của Lexus, kỹ sư trưởng Akihiko Saito của Corolla E100 đã đưa vào những cải tiến nhằm thiết lập một quỹ đạo mới cho mẫu xe này. Hơn nữa, Corolla đã trở nên lớn hơn nhiều ở thế hệ này, với chiều dài cơ sở dài hơn giúp chỗ để chân lớn hơn cho hành khách phía sau. Trong khi đó, động cơ 1.6 lít và 1.8 lít mới với phun xăng điện tử (EFI) cũng được giới thiệu ở Bắc Mỹ, mang lại nhiều sức mạnh hơn, đặc biệt là ở tốc độ đường cao tốc.
Tất cả những cải tiến đó đã khiến Corolla trở thành một chiếc xe đẹp hơn rất nhiều trên những hành trình dài hơn. E100 cho cảm giác ổn định hơn ở tốc độ cao so với tất cả các thế hệ trước trong khi yên tĩnh và tinh tế hơn nhiều. Đáng chú ý, nó tinh tế hơn hầu hết các đối thủ, kết hợp giữa sự sang trọng và độ tin cậy mà không có chiếc xe nhỏ gọn nào cùng thời có được.
4. Corolla thế hệ thứ nhất (1966 – 1970)
Toyota đã đưa ra một số lựa chọn thông minh và nhanh chóng đưa Corolla trở thành mẫu xe cỡ nhỏ Nhật Bản được khách hàng quốc tế ưa chuộng. Trong khi các đối thủ cạnh tranh đang bận rộn đáp ứng các tiêu chuẩn xe kei (xe hình hộp) của Nhật Bản, Toyota đã chọn động cơ 1.1 lít lớn hơn, so với động cơ 1.0 lít tiêu chuẩn trên thực tế ở các mẫu xe cỡ nhỏ khác. Việc chuyển sang động cơ lớn hơn đã khiến Toyota phải chịu mức thuế cao hơn ở Nhật Bản, nhưng điều đó không thành vấn đề vì Corolla vẫn trở thành chiếc xe bán chạy nhất tại thị trường nội địa. Ngoài ra, Corolla còn có hộp số sàn, được coi là thể thao vào thời điểm đó.
Thị trường quốc tế cũng được trải nghiệm công nghệ Nhật Bản với Corolla E10 thế hệ đầu tiên. Cần số gắn trên sàn an toàn hơn khi va chạm và Toyota cũng giới thiệu cột lái có thể thu gọn, hệ thống treo thanh chống MacPherson phía trước để xử lý tốt hơn, đồng thời tiếp thị mình là một thương hiệu quan tâm đến sự an toàn của khách hàng - ngay cả ở chiếc xe rẻ nhất.
Kết hợp độ tin cậy huyền thoại của Toyota và khả năng sản xuất số lượng lớn, công thức cho chiếc xe gia đình bình dân hoàn hảo đã ra đời.
5. Corolla thế hệ thứ 6 (1987 đến 1991)
Với mẫu xe thế hệ thứ sáu, Toyota đã bỏ phiên bản dẫn động cầu sau và chú trọng cải tiến công thức xe subcompact (xe bình dân cỡ nhỏ). Corolla có nhiều kiểu dáng thân xe, thiết kế khí động học và lớn hơn so với phiên bản tiền nhiệm. Đây cũng là một trong những chiếc xe đầu tiên trong phân khúc được trang bị động cơ 4 xi-lanh 16 van, mang lại hiệu suất tốt hơn và tiết kiệm nhiên liệu hơn.
Tuy nhiên, lợi ích lớn nhất ở thế hệ này là nhờ trải nghiệm lái xe. E90 Corolla ổn định, thoải mái và tinh tế hơn, mang đến trải nghiệm di chuyển chất lượng cao hơn cho tất cả hành khách.
Ngoài ra, đội ngũ kỹ thuật còn theo đuổi sự sang trọng và thoải mái bằng cách sử dụng chất liệu vải nhung và vải dệt kim dày bên trong cabin. Mặc dù khai tử bản RWD, E90 Corolla cũng có thể mang lại cảm giác lái thú vị nhờ có chiếc Corolla Sport coupe với đèn pha có thể thu vào và phiên bản cải tiến của động cơ 4A-GE. Toyota thậm chí còn cung cấp một biến thể 4A-GZE tăng áp có công suất mạnh mẽ là 165 mã lực ở một số thị trường.
Trong khi đó, người châu Âu có thể trải nghiệm 4A-GE với mẫu hot hatchback ba cửa GT-i 16, công suất khoảng 125 mã lực trong một khung gầm tương đối nhẹ. Sự khởi sắc cuối cùng đối với mẫu xe thế hệ thứ 6 là Corolla Wagon All-Trac ở Bắc Mỹ, một phiên bản giống crossover được nâng cấp với hệ dẫn động bốn bánh toàn thời gian đã thu hút những khách hàng thích phiêu lưu.
6. Corolla thế hệ thứ 9 (2000 đến 2006)
Corolla thế hệ thứ 9 đã giới thiệu một trong những bước nhảy vọt lớn nhất về kích thước tổng thể, với chiều dài cơ sở 2,6 m so với 2,4 m của thế hệ trước. Động thái này chỉ là một phần nhỏ trong những cải tiến lớn, vì kỹ sư trưởng Takeshi Yoshida muốn phá vỡ mọi ràng buộc với các thế hệ Corolla trước đó để sản xuất một chiếc xe có thể cạnh tranh với Ford Focus cực kỳ phổ biến lúc bấy giờ.
E120 Corolla là một chiếc xe vượt trội hơn rất nhiều so với các thế hệ trước, với nhiều không gian hơn cho cả người ngồi phía trước và phía sau. Cabin cũng có nhựa mềm chất lượng cao hơn và thiết kế bảng điều khiển sạch sẽ hơn, mang tính công thái học tốt hơn. Tiếng ồn, độ rung và độ khắc nghiệt thấp hơn đáng kể và Corolla lái xe tốt hơn trong các góc cua.
Độ an toàn cũng được cải thiện –- E120 Corolla có túi khí phía trước hai giai đoạn tiêu chuẩn, túi khí bên cũng được cung cấp dưới dạng tùy chọn. Trên hết, Toyota đặt ra các tiêu chuẩn về khoảng cách bảng điều khiển giống như tiêu chuẩn dành cho xe Lexus. Ngoài ra, Toyota cũng cung cấp cho Corolla XRS động cơ 2ZZ 1.8 lít có vòng tua cao sản sinh 170 mã lực. Phiên bản thể thao không đặc biệt thú vị khi lái trong các góc cua, nhưng động cơ đã bù đắp được điều đó bằng sức mạnh đỉnh cao của nó.
7. Corolla thế hệ thứ 2 (1970 đến 1974)
Trong khi Corolla thế hệ đầu tiên theo đuổi công thức xe kei thì mẫu xe thế hệ thứ hai đã phát triển theo mọi hướng để thoát khỏi nguồn gốc xe đô thị. Cabin trở nên rộng rãi hơn cho hành khách phía trước và phía sau, đồng thời khu vực chở hàng cũng rộng hơn.
Toyota cũng cung cấp động cơ 1.4 lít và 1.6 lít lớn hơn cho thế hệ này, với động cơ sau là tùy chọn ở Bắc Mỹ và tạo ra công suất 102 mã lực. Các bài đánh giá đương thời ca ngợi động cơ hoạt động tốt ngay cả ở số vòng quay cao hơn và có đủ công suất để di chuyển trên đường cao tốc. E20 Corolla có bốn kiểu dáng thân xe - sedan bốn cửa, sedan hai cửa, station wagon hai cửa và coupe hai cửa. Trên thực tế, Toyota đã sản xuất 2.406.860 chiếc E20 Corollas chỉ trong 4 năm, khiến nó trở thành một trong những mẫu xe thành công nhất thời kỳ đó.
Thật không may, E20 Corolla không được những người đam mê xe ưa chuộng lắm vì nó không đặc biệt thú vị khi lái. Ngoài ra, không có mẫu xe thể thao nào có mặt ở Bắc Mỹ và hầu hết các thị trường toàn cầu. Tuy nhiên, người mua JDM có thể lựa chọn mẫu Corolla Levin hiệu suất cao với động cơ Twin-Cam 1,6 lít chế hòa khí Solex, sản sinh công suất 115 mã lực. Corolla Levin cũng dẫn động cầu sau và đi kèm hộp số sàn 5 cấp.
8. Corolla thế hệ thứ 8 (1995 đến 2000)
Toyota đã giới thiệu E110 Corolla như một mẫu xe hoàn toàn mới vào năm 1995 trên toàn cầu và vào năm 1997 tại Bắc Mỹ. Tuy nhiên, nó không phải là một chiếc xe hoàn toàn mới vì nó dùng chung nền tảng với mẫu xe tiền nhiệm và có kích thước tương tự. E110 thậm chí còn có ngoại hình tương tự và bố cục bảng điều khiển bên trong hầu như không thay đổi.
Tuy nhiên, có một nâng cấp đáng kể về động cơ. E110 được trang bị nhiều chi tiết hoàn toàn bằng nhôm cho phiên bản tại thị trường Bắc Mỹ. Kết quả là, mẫu xe được làm mới nhẹ hơn trước, mang lại khả năng tiết kiệm nhiên liệu và khả năng tăng tốc tốt hơn. Toyota cũng đảm bảo rằng động cơ VVT-i 1.8 lít 120 mã lực mượt mà và êm ái hơn.
Tuy nhiên, ngoài động cơ được cải thiện, việc lái xe không thực sự thú vị và không thể cạnh tranh với các đối thủ về hiệu suất.E110 Corolla luôn thoải mái và yên tĩnh, điều mà người mua ưa chuộng, nhưng khách hàng trẻ bắt đầu xem xét các lựa chọn khác.
Toyota không quan tâm đến việc tung ra phiên bản hiệu suất của thế hệ này ở Bắc Mỹ. Điều thú vị là TTE (Toyota Team Europe) đã tham gia giải E110 trong Giải vô địch đua xe thế giới năm 1997 và giành được danh hiệu của nhà sản xuất vào năm 1999.
Thật không may, không có phiên bản đường trường nào của xe đua ở châu Âu mà chỉ có phiên bản G6R hatchback 110 mã lực. Như thường lệ, Nhật Bản có những mẫu mã đẹp nhất; JDM E110 Corolla có sẵn động cơ 4A-GE 1.6 lít nâng cấp với năm van trên mỗi xi-lanh, sản sinh công suất 165 mã lực.
9. Corolla thế hệ thứ 10 (2006 đến 2012)
E150 Corolla đã giới thiệu Nền tảng MC mới của Toyota, mặc dù nó vẫn có cùng chiều dài cơ sở với mẫu xe trước đó. Tuy nhiên, cabin vẫn đủ rộng rãi cho bốn người lớn đồng thời mang lại chất lượng cảm nhận tốt.
Toyota đã lựa chọn động cơ lớn hơn ở Bắc Mỹ, với loại 1.8 lít và 2.4 lít, cả hai đều mang lại khả năng vận hành êm ái và di chuyển trên đường cao tốc yên tĩnh. Động cơ lớn hơn, sản sinh công suất 158 mã lực, chỉ có ở mẫu XRS thể thao và đẩy Corolla đạt tốc độ 100 km/h trong 7,9 giây.
Tuy nhiên, E150 Corolla XRS không phải là mẫu xe hiệu suất cao. Động cơ có nguồn gốc từ Camry không có đặc điểm như động cơ 4A-GE vòng tua cao. Chưa kể, Corolla không được đánh giá cao khi xử lý các góc cua.
Tuy nhiên, điều ngạc nhiên lớn nhất là Toyota cũng đã hủy bỏ nỗ lực phát triển phiên bản hiệu suất của Corolla tại thị trường nội địa. Có một động cơ tăng áp 1.5 lít trong Corolla Axio GT sản sinh 150 mã lực, nhưng mẫu xe đó không hoàn toàn là thứ mà những người đam mê đang tìm kiếm.
Không có gì đáng ngạc nhiên khi E150 Corolla là một trong những chiếc ít đáng nhớ nhất. Tất nhiên, độ tin cậy chưa bao giờ là vấn đề với mô hình này và nhiều gia đình rất hài lòng với việc mua hàng của họ. Tuy nhiên, mẫu xe này ra mắt ngay sau khi Toyota hủy bỏ MR2 và Celica, báo hiệu một thập kỷ ô tô Toyota nhàm chán.
10. Corolla thế hệ thứ t4 (1979 đến 1983)
Corolla thế hệ thứ tư đã phát triển đáng kể so với phiên bản tiền nhiệm, có chiều dài cơ sở tương đối dài 2,4 m mang lại nhiều không gian hơn bên trong, hệ thống treo sau tiên tiến hơn với lò xo cuộn là cải tiến đáng kể nhất, mang lại sự thoải mái cao hơn và khả năng xử lý tốt hơn.
Tất cả đều nằm trong kế hoạch phát triển một phương tiện sang trọng hơn của kỹ sư trưởng Fumio Agetsuma. Để làm được điều đó, Toyota đã thực hiện nghiên cứu thị trường kỹ lưỡng và không bỏ sót một bước nào, vì nhóm phát triển không chỉ nghiên cứu những người mua của ba thế hệ trước mà còn cả chủ sở hữu của các đối thủ. Kết quả là một chiếc Corolla tốt hơn bao giờ hết - nhưng vẫn chưa đủ để bắt kịp.
E70 Corolla là thế hệ cuối cùng được thiết kế theo kiểu bố trí dẫn động cầu sau trong thời đại mà những chiếc xe cỡ nhỏ dẫn động cầu trước bắt đầu thống trị các con đường. Mẫu xe phổ biến nhất của Toyota vẫn là mẫu xe bán chạy nhất nhưng nó không thể cạnh tranh về tính hiệu quả, không gian nội thất và khả năng vận hành. Ngày nay, thế hệ này gần như đã bị lãng quên.
11. Corolla thế hệ thứ 11 (2013 đến 2019)
Sau thành công của E150 Corolla, Toyota đã đẩy mạnh tập trung vào sự thoải mái, yên tĩnh và đáng tin cậy với mẫu xe thế hệ E170. Công ty tiếp tục sử dụng cùng một nền tảng Toyota MC Platform mới, mặc dù nó đã kéo dài chiều dài cơ sở thêm 0,01 m, khiến đây trở thành chiếc Corolla lớn nhất trong lịch sử.
Đối với hầu hết mọi người, E170 Corolla là một chiếc xe tốt. Nó có nhiều không gian ở băng ghế sau hơn so với phiên bản tiền nhiệm, mang lại hiệu suất ổn định từ hai động cơ 1.8 lít, tiết kiệm nhiên liệu tốt và tất nhiên là vẫn đáng tin cậy hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, bất chấp thiết kế ấn tượng, động cơ là một điểm trừ. E170 Corolla không có động cơ vòng tua cao và thậm chí không có bộ tăng áp.
E170 Corolla bị tụt lại phía sau trong bộ phận động lực lái xe, và ngay cả những mẫu xe phiên bản đặc biệt như Toyota Corolla S 2016 cũng chỉ mang tính thể thao. Toyota thậm chí còn chọn hộp số CVT để thu hút người mua với chiếc E170 và doanh số bán hàng rất vượt trội. Dẫu vậy, sau 20 năm, mẫu xe vẫn bị lãng quên.
12. Corolla thế hệ thứ 3 (1974 đến 1979)
Corolla thế hệ thứ 3 là một cải tiến đáng chú ý so với hai thế hệ đầu tiên nhỏ hơn và kém sang trọng hơn. Nó có thiết kế thân xe hợp lý, vật liệu nội thất tốt hơn, bảng điều khiển có bố cục tiện dụng hơn và động cơ lớn hơn. Kể từ khi ra mắt vào giữa cuộc khủng hoảng dầu mỏ, E30 Corolla cũng được thiết kế với mục tiêu giảm lượng khí thải và tăng cường tiết kiệm nhiên liệu. Chưa kể, nó có sẵn 5 kiểu dáng thân xe riêng biệt: Sedan, wagon, mui cứng, coupe và Liftback.
Tuy nhiên, mặc dù là chiếc xe bán chạy nhất thế giới vào năm 1974, nhưng E30 Corolla không phải là chiếc xe cỡ nhỏ tốt nhất trong thời đại của nó. Danh hiệu đó thuộc về VW Golf, hãng đã đưa hệ dẫn động cầu trước đến với đại chúng. Mặc dù VW không có nhiều kiểu dáng thân xe nhưng nó là chiếc xe cao cấp hơn. Golf có nội thất rộng rãi hơn, nhanh hơn, tiết kiệm hơn và lái tốt hơn.
Động cơ của Corolla đã lớn hơn trước nhưng lại thiếu sức mạnh so với đối thủ. Đặc biệt, với thế hệ này, Corolla đã có được hình ảnh thiết bị gây khó chịu cho nhiều thế hệ khác.
Theo VOV
Hãy để lại ý kiến dưới phần bình luận bên dưới hoặc chia sẻ bài viết về Ban Ô tô xe máy theo email: otoxemay@vietnamnet.vn. Các nội dung phù hợp sẽ được đăng tải. Xin cảm ơn!