Bộ TT&TT định hướng các doanh nghiệp viễn thông chủ chốt của Nhà nước đầu tư vào các hạ tầng viễn thông thế hệ mới (hạ tầng số) để tạo nền tảng mới, động lực mới cho phát triển đất nước.
VNPT đã có những chuyển đổi quan trọng, đã có chiều hướng đi lên, nhưng vẫn chưa thấy sự bứt phá, chưa thấy những đường hướng chiến lược, những quyết tâm chiến lược mạnh mẽ để mở ra được một giai đoạn phát triển mới. Tăng trưởng những năm gần đây của các nhà mạng là thấp, thấp hơn tăng trưởng GDP (viễn thông trong nước của Viettel tăng từ 2-5%, VNPT từ 2-3%, MobiFone thì giảm từ 4-10% mỗi năm). Một nhà mạng viễn thông thế hệ mới mà tăng trưởng tốt là phải xung quanh 10%, tăng trưởng mức đạt yêu cầu thì cũng phải trên 5%.
Đất nước phát triển thì phải dựa vào không gian mới. Không gian phát triển mới thì chủ yếu là không gian số. Không gian mới thì cần hạ tầng mới. Đó là hạ tầng số. Các nhà mạng chủ chốt, trong đó có VNPT, đã chưa đầu tư đi trước về xây dựng hạ tầng số để tạo nền tảng cho phát triển đất nước - phát triển kinh tế số (KTS). Và cũng vì vậy mà vẫn chưa tìm thấy không gian tăng trưởng mới, trong khi không gian cũ đã hết dư địa. Thậm chí suy giảm. Thí dụ như các dịch vụ truyền thống là thoại và SMS, đã từng chiếm gần 100% doanh thu di động của nhà mạng, thì cơ bản sẽ giảm xuống chỉ còn dưới 10%. Những dịch vụ truyền thống này của VNPT vẫn đang chiếm tới 40% thì phải chuẩn bị là nó sẽ giảm xuống dưới 10%. Nếu không sớm mở ra không gian mới thì VNPT sẽ nguy hiểm trong tương lai.
Thứ nhất là về những chuyển dịch quan trọng của ngành
10-20-30 năm tới sẽ là những chuyển dịch quan trọng trong công cuộc đổi mới lần thứ hai của ngành: Từ hạ tầng viễn thông sang hạ tầng số; từ hạ tầng thông tin liên lạc sang hạ tầng nền kinh tế; từ công nghệ thông tin sang công nghệ số; từ ứng dụng CNTT sang CĐS; từ tự động hoá sang thông minh hoá, sang trí tuệ nhân tạo; từ xử lý thông tin hữu hạn sang xử lý dữ liệu số vô hạn để sinh ra giá trị mới; từ phần mềm riêng lẻ sang nền tảng số; từ gia công, lắp ráp sang làm sản phẩm Make in Viet Nam (thiết kế tại Việt Nam, sáng tạo tại Việt Nam, làm ra tại Việt Nam); từ thị trường trong nước là chính sang thị trường quốc tế là chính; công nghệ số trở thành lực lượng sản xuất cơ bản; nhân tài số trở thành nguồn lực cơ bản; đổi mới sáng tạo số trở thành động lực cơ bản của phát triển.
Đây là định hướng lớn của Ngành ta. Các nhà mạng phải nhận thức sâu sắc, nắm chắc nó như kim chỉ nam, như ngôi sao dẫn lối. Người đứng đầu thì càng phải nắm chắc để dẫn dắt một tập đoàn lớn, một tập đoàn quan trọng của đất nước. Chuyển đổi thường là việc khó nhất của một tổ chức, tổ chức càng lớn thì càng khó. Khó là vì chuyển đổi thì chưa mang lại giá trị, lại chưa biết có thành công hay không, trong khi cái cũ thì quá lớn, lại đang rất ổn. Chuyển đổi là việc của người đứng đầu.
Thứ hai là về khái niệm hạ tầng số của Việt Nam
Hạ tầng số Việt Nam bao gồm hạ tầng viễn thông, hạ tầng IoT, hạ tầng tính toán, hạ tầng dữ liệu, hạ tầng cung cấp công nghệ số như dịch vụ và các nền tảng số có tính hạ tầng. Hạ tầng số Việt Nam thì phải dung lượng siêu lớn, băng thông siêu rộng, phổ cập, bền vững, xanh, thông minh, mở và an toàn. Hạ tầng này phải được ưu tiên đầu tư, hiện đại hoá và đi trước một bước để thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số.
Các nhà mạng phải luôn ghi nhớ, nghề chính của mình là nghề hạ tầng, sức mạnh chính của mình là sức mạnh hạ tầng, trách nhiệm chính của mình với đất nước là trách nhiệm hạ tầng, lợi thế cạnh tranh chính của mình là hạ tầng, sứ mệnh chính của mình là sứ mệnh hạ tầng để những người khác, doanh nghiệp khác đứng trên vai mình mà kinh doanh, chứ không phải một mình mình đứng trên vai mình. Nhà mạng viễn thông, hạ tầng số của Việt Nam có nhiều thì cũng không quá 10 công ty, nhưng làm ứng dụng CNTT thì có hàng ngàn, hàng chục ngàn công ty. Định vị đúng vẫn luôn là việc đầu tiên của một doanh nghiệp.
Nguồn thu chính của một nhà mạng, một doanh nghiệp hạ tầng là đến từ các dịch vụ thuê bao đăng ký, thu phí hàng tháng, chứ không phải từ các dự án thu tiền một lần.
Thứ ba là về triển khai 5G và cách kinh doanh 5G, làm tốt việc này sẽ tạo ra tăng trưởng cho nhà mạng ít nhất 5-10%
Năm 2024 là năm thương mại hoá 5G trên phạm vi toàn quốc. Nếu 4 năm trước đây mà triển khai 5G thì thiết bị rất đắt, có làm thì cũng chỉ nên phủ sóng 20-30% ở các thành phố. Nhưng nay, sau 4 năm, giá thiết bị chỉ còn 1/4, vậy nên, vẫn với số tiền ấy, chúng ta có thể phủ sóng 100%. Vậy, chúng ta hãy lập kế hoạch để phủ sóng toàn quốc ngay trong năm 2024, hãy sử dụng 5G SA ngay, không cần phải đi qua giai đoạn trung gian 4,5G (5G NSA).
Một nhà mạng muốn phát triển bền vững, mỗi năm phải đầu tư 15-20% doanh thu cho mạng lưới, với VNPT thì mỗi năm phải đầu tư xung quanh 10.000 tỷ đồng cho mạng lưới. Một số nhà mạng Việt Nam những năm gần đây đầu tư ít nên chất lượng mạng lưới chưa thật tốt. Tốc độ di động của các nhà mạng: thấp nhất 10-15Mbps, trung bình 30-45 Mbps, xếp hạng 50-60/140 nước. Đây chưa phải mức cao của thế giới.
Một mạng di động chất lượng tốt, dung lượng lớn, phủ sóng sâu vào trong nhà, tốc độ cao thì cứ mỗi 1.000 dân là có một trạm phát sóng. Mạng di động tốt nhất của Việt Nam thì 2.000 dân mới có một trạm phát sóng. Các nhà mạng vẫn phải đầu tư mạnh hơn nữa để nâng cao chất lượng mạng lưới, nhất là khi triển khai 5G.
Kinh doanh 2/3/4G thì chủ yếu là B2C. Là kinh doanh những dịch vụ mà người dân đã biết. Nhà mạng không phải đầu tư nhiều để nghiên cứu phát triển (NCPT) các dịch vụ mới. Nhưng 5G thì B2B sẽ là chính. Nhà mạng phải sáng tạo ra những sản phẩm, dịch vụ mới dựa trên công nghệ 5G để bán cho doanh nghiệp, để CĐS các doanh nghiệp, các ngành.
Chủ đề năm 2024 của Bộ là: Phổ cập hạ tầng số, sáng tạo ứng dụng số để phát triển kinh tế số - Động lực mới cho tăng trưởng kinh tế và năng suất lao động.
Phát triển kinh tế số thì quan trọng nhất là các ứng dụng số, ứng dụng chuyển đổi số cho các ngành. Vậy ai sẽ là người làm việc này? Đó phải là các nhà mạng, là các doanh nghiệp công nghệ số (CNS). Chúng ta có hạ tầng, chúng ta có công nghệ, chúng ta có nhân lực, chúng ta có hiểu biết CĐS, thì chúng ta phải là người sáng tạo ra các ứng dụng CĐS cho các ngành để bán cho họ. Mấy năm qua, chúng ta để việc này cho các ngành tự làm và vì vậy, sự phát triển CĐS, KTS rất chậm.
Phát triển ứng dụng số cho các ngành thì cũng chính là sáng tạo sản phẩm, cũng chính là Make in Viet Nam. Các nhà mạng, các doanh nghiệp CNS phải coi đây là hoạt động nghiên cứu phát triển. Nhà mạng China Mobile của Trung Quốc một năm chi tới 4 tỷ USD, khoảng 3-4% doanh thu (các nhà mạng Việt Nam thì đang ở mức 0,1%) để phát triển các ứng dụng, các Use Case, cho các ngành, nhất là các ngành công nghiệp. Họ đã phát triển được trên 30.000 ứng dụng 5G công nghiệp và doanh thu hàng năm của China Mobile vì thế mà tăng trên 10%. Thị trường các ứng dụng 5G toàn cầu sẽ đạt 670 tỷ USD vào năm 2025, tức là giúp cho doanh thu nhà mạng tăng tới 50% so với năm 2020, trung bình mỗi năm tăng 10%. Đây là không gian mới quan trọng của nhà mạng.
Chúng ta cũng phải chú ý, không có 5G thì không có tăng trưởng 10%, nhưng tăng trưởng 10% thì không chỉ là 5G mà là một hệ sinh thái ứng dụng 5G.
Các nhà mạng hãy đi vào các ngành, các lĩnh vực để sáng tạo các ứng dụng số, giúp CĐS, phát triển KTS cho các ngành và lĩnh vực. Và đây cũng chính là quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Các nhà mạng từ nay có một sứ mệnh mới là công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước thông qua sáng tạo các ứng dụng số.
Phát triển KTS các ngành cũng chính là cách để tăng năng suất lao động (NSLĐ) của các ngành này. Việt Nam chúng ta nhiều năm nay đều không đạt mục tiêu tăng NSLĐ, thì nay, lời giải của chúng ta về vấn đề nan giải này là sáng tạo các ứng dụng số để phát triển KTS các ngành. Các nhà mạng làm 5G và các ứng dụng công nghiệp 5G cũng chính là góp phần tăng NSLĐ cho quốc gia.
5G cũng sẽ thúc đẩy IoT. Nếu phát triển tốt thì đến 2025, Việt Nam phải có 100 triệu thuê bao IoT, đến 2030 thì ít nhất là 200 triệu. Không phát triển được thuê bao di động thì hãy tập trung phát triển thuê bao IoT, không gian ở đây là 200 triệu thuê bao mới và lớn hơn. Nhưng không phải tự nhiên mà có được các thuê bao này, các nhà mạng phái phát triển các ứng dụng làm bùng nổ IoT.
Thứ tư là về làm chủ công nghệ AI, đầu tư hạ tầng AI để cung cấp nó đến mọi người dân như dịch vụ, làm tốt ở đây sẽ tạo ra tăng trưởng cho nhà mạng ít nhất 5-10%
AI là công nghệ chính và quan trọng nhất của cách mạng công nghệ lần thứ tư, nó sẽ giống như động cơ hơi nước, như điện, như máy tính của các cuộc cách mạng công nghệ trước đây. Tức là một loại công nghệ có tính phổ cập và ứng dụng trong mọi ngành, tới mọi người. Trách nhiệm phổ cập này phải thuộc về các nhà mạng, tức là cung cấp công nghệ AI như dịch vụ.
Năm 2024 là năm phát triển AI, nhất là AI hẹp, tạo ra các ứng dụng AI cho từng lĩnh vực, các AI công nghiệp. Cung cấp AI như dịch vụ.
AI diện hẹp là AI chuyên biệt, tập trung và do người dùng tạo ra. Các hệ thống AI diện hẹp được thiết kế và huấn luyện cho một nhiệm vụ cụ thể. Chúng có hiệu quả cao trong phạm vi chức năng được xác định trước. Công nghệ AI diện hẹp hiện đã sẵn sàng để ứng dụng rộng rãi.
AI diện hẹp là AI của người dùng, do người dùng tham gia tạo ra, là đứa con, là bộ não mở rộng, là trợ lý ảo của người dùng. Người dùng cung cấp cho AI diện hẹp của mình các dữ liệu và thuật toán. Người dùng huấn luyện AI của riêng mình và sau đó sử dụng. Người dùng tạo ra nó, vì thế mà tin tưởng nó. AI diện hẹp nằm dưới sự kiểm soát của người dùng, bởi vì chính họ hoặc tổ chức của họ đã tạo ra nó, chứ không phải ai khác. AI diện hẹp là AI dùng riêng, nó không cần quá nhiều các quy định của chính quyền. Nhà mạng thì cung cấp AI engine và năng lực tính toán như một dịch vụ để mỗi người Việt Nam có một trợ lý ảo.
Mỗi nhà mạng phải thành lập ngay một đơn vị về phát triển AI, đưa AI vào mọi lĩnh vực hoạt động của tập đoàn, vào điều hành, khai thác mạng lưới, vào mọi sản phẩm, dịch vụ của tập đoàn, đặc biệt là dùng AI để sáng tạo các sản phẩm mới, nhất là B2B. Không những vậy, phải nắm chắc công nghệ AI để có thể nhận và giải quyết những bài toán lớn quốc gia. Viện nghiên cứu AI của nhà mạng China Mobile là 1.500 kỹ sư, thì đơn vị nghiên cứu phát triển và ứng dụng AI của các nhà mạng Việt Nam chắc ban đầu cũng phải 100 - 200 kỹ sư AI.
Thứ năm là về hạ tầng tính toán - Computing Utility, làm tốt việc này thì cũng sẽ tạo ra tăng trưởng cho nhà mạng ít nhất 5-10%
Một khi loài người còn phát triển dựa trên thông tin, dựa trên dữ liệu như một yếu tố đầu vào của sản xuất, thì việc xử lý dữ liệu sẽ tiếp tục là trọng yếu. Nhu cầu về xử lý dữ liệu sẽ không khác gì nhu cầu về điện, nước. Một số quốc gia đã đưa ra khái niệm Computing Utility, tức là hạ tầng tính toán.
Máy tính đã trở thành năng lực tính toán, một loại hạ tầng mới, một loại năng lượng mới cho sự phát triển của nhân loại. Trước đây, năng lượng là than đá, dầu mỏ, là điện thì nay, năng lượng là năng lực tính toán. Các nhà mạng phải đầu tư các server có năng lực tính toán mạnh, nhất là các server AI, để cung cấp tính toán như một dịch vụ, nhất là tính toán biên gần với người dùng. Mà phải là dịch vụ phổ cập. AI sẽ là công nghệ tiêu tốn nhiều công suất tính toán nhất.
VNPT phải trở thành nhà cung cấp hạ tầng tính toán, dịch vụ Cloud hàng đầu. IDC và Cloud là hạ tầng viễn thông mới, là một trong những thành phần quan trọng nhất của hạ tầng số. Chỉ 6-7 năm nữa thôi, tức là vào năm 2030, doanh thu từ IDC, Cloud, từ hạ tầng tính toán sẽ lớn hơn viễn thông rất nhiều.
IDC lớn nhất mà VNPT vừa xây dựng với dung lượng 2.000 racks, là loại vừa, một IDC loại lớn thì ít nhất cũng là 5.000 racks. Việt Nam chưa có một IDC loại lớn nào. Các nhà mạng Việt Nam chưa có một tầm nhìn đủ lớn về dữ liệu.
Thứ sáu là về công nghiệp bán dẫn và công nghiệp điện tử-viễn thông, làm tốt việc này sẽ tạo ra tăng trưởng cho nhà mạng ít nhất 5-10%
Năm 2024 là năm đầu tiên chúng ta thực hiện chiến lược quốc gia về phát triển công nghiệp bán dẫn.
Công nghiệp bán dẫn là ngành công nghiệp nền tảng, và không chỉ nó vậy, nó còn là ngành công nghiệp trọng yếu quốc gia trong 30-50 năm tới. Một khi loài người còn phát triển dựa trên thông tin, dựa trên dữ liệu như một yếu tố đầu vào của sản xuất, thì việc xử lý dữ liệu, tức là chip bán dẫn, sẽ tiếp tục là trọng yếu.
Lợi thế căn bản nhất của chúng ta là người Việt Nam có gen về STEM (toán, kỹ thuật, công nghệ và khoa học). Mà STEM là căn bản của công nghệ bán dẫn, của thiết kế chip. Trong các lợi thế thì lợi thế gen là quan trọng nhất, chắc cũng không kém lợi thế về địa chính trị. Từ lợi thế nhân lực sẽ ra các lợi thế khác. Từ trung tâm toàn cầu về nhân lực bán dẫn sẽ dẫn tới trung tâm toàn cầu về công nghiệp bán dẫn.
Chúng ta phát triển công nghiệp bán dẫn thì nên nhìn nó trong một ngữ cảnh lớn hơn, một bức tranh lớn hơn. Nếu nói về thị trường thiết kế chip bán dẫn thì chỉ có 60 tỷ USD mỗi năm, nếu nói cả ngành công nghiệp bán dẫn thì là 600 tỷ USD, nhưng ngành công nghiệp điện tử thì trên 3.000 tỷ USD, còn ngành công nghiệp chuyển đổi số thì lên tới 20.000 tỷ USD, tức là lớn hơn 30 lần ngành công nghiệp bán dẫn.
Phát triển công nghệ bán dẫn cũng là cơ hội để Việt Nam dựng lại ngành công nghiệp điện tử nước nhà (như thiết bị điện tử-viễn thông, thiết bị điện tử tiêu dùng, thiết bị điện tử y tế, thiết bị điện tử công nghiệp...), nhất là khi ngành này đang bước vào giai đoạn chuyển đổi sang thiết bị điện tử AI, thiết bị IoT. Công nghiệp bán dẫn cũng là cốt lõi của công nghiệp CĐS. Công nghiệp CĐS là thị trường lớn nhất của chip bán dẫn. Việt Nam với 100 triệu dân là một thị trường lớn, lại đang ở giai đoạn phát triển nhanh, công nghiệp hoá nhanh, CĐS nhanh, tiêu dùng điện tử nhiều, nên sẽ là một bối cảnh thuận lợi cho công nghiệp bán dẫn.
Các nhà mạng Việt Nam như Viettel, VNPT, nếu muốn phát triển lĩnh vực công nghiệp bán dẫn, công nghiệp điện tử, thì phải làm có tầm nhìn lớn hơn và một quyết tâm lớn hơn. Phải làm chủ đến mức nghiên cứu sản xuất chip trong các thiết bị điện tử của mình. Ngành công nghiệp điện tử đang lớn gấp 3 lần viễn thông. Ngành công nghiệp CĐS thì lớn hơn 20 lần viễn thông. Hãy nhìn vào đây nhiều hơn là nhìn vào những phân đoạn chưa đến 5%, chưa đến 10% viễn thông - là những phân đoạn vừa nhỏ lại vừa đông người. Tất nhiên, những phân đoạn này lại hấp dẫn ở chỗ đã quen, dễ làm. Nhưng đã là doanh nghiệp lớn thì phải nhìn vào những không gian lớn hơn và để lại những không gian nhỏ hơn cho người khác.
Cái gì tốt rồi cũng không tốt mãi. Cái gì là chính rồi cũng không còn là chính nữa. Cái gì thành công rồi cũng sẽ không mãi thành công. Kinh nghiệm ngày hôm qua có thể lại là trở ngại cho ngày hôm nay. Bởi vậy, tìm kiếm không gian mới phải là một việc thường xuyên, liên tục của các nhà mạng.
Việc nghiên cứu phát triển, việc chi 2-3% doanh thu cho nghiên cứu phát triển để tìm hướng đi mới, tìm kiếm và thử nghiệm không gian mới, để sáng tạo các ứng dụng mới, các sản phẩm và dịch vụ mới sẽ đảm bảo, và chỉ có nó mới đảm bảo cho các nhà mạng có tương lai. Các nhà mạng của chúng ta phải đặt mục tiêu tăng trưởng trên 10% mỗi năm và sau đó tìm cách thực hiện.
Một mục tiêu đặt ra cho tương lai mà đã biết kế hoạch thực hiện thì đó không phải một mục tiêu thách thức. Nếu mục tiêu đặt ra mà chưa biết làm thế nào thì đó là một mục tiêu có thách thức.
VNPT hãy mạnh mẽ hơn nữa trong các quyết tâm chiến lược, vừa là để phát triển chính mình, vừa góp phần phát triển đất nước. Hãy luôn ghi nhớ và tự hào, VNPT là doanh nghiệp hạ tầng quốc gia và đặc biệt là doanh nghiệp xây dựng hạ tầng mới cho sự phát triển mới của đất nước, đó là KTS.