- Trước khi lấy chồng, tôi được bố mẹ cho một căn nhà trên đất là 40m2, sổ đỏ nhà đất đứng tên tôi. Sau này lấy chồng, chồng tôi chỉ việc chuyển về ở. Vợ chồng tôi ở với nhau được hơn 6 năm, trong thời gian đó chúng tôi có sửa sang một chút chứ không sửa gì nhiều.
Nay vợ chồng hay cãi cọ, tôi muốn ly hôn. Xin hỏi khi ly hôn với chồng, chồng tôi có quyền lợi gì trên nhà đất đó không?
Nếu anh ấy đòi chia phần, thì có cơ sở để chia cho anh ấy không? (Câu hỏi của bạn Huyền Trang (Q. Phú Nhuận, Tp. Hồ Chí Minh)
Trả lời:
Tin bài khác:
Nay vợ chồng hay cãi cọ, tôi muốn ly hôn. Xin hỏi khi ly hôn với chồng, chồng tôi có quyền lợi gì trên nhà đất đó không?
Nếu anh ấy đòi chia phần, thì có cơ sở để chia cho anh ấy không? (Câu hỏi của bạn Huyền Trang (Q. Phú Nhuận, Tp. Hồ Chí Minh)
Trả lời:
Tin bài khác:
Ảnh minh họa |
Theo quy định tại Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (có hiệu lực từ ngày 01/1/2001) thì vợ chồng có quyền có tài sản riêng. Tài sản riêng của vợ chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn, tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân, tài sản được chia riêng cho vợ chồng như tư trang, đồ dùng cá nhân. Pháp luật cũng quy định vợ chồng có quyền nhập hoặc không nhập tài sản riêng vào khối tài sản chung. Khấu hao tài sản riêng dùng cho cuộc sống chung coi như là chi phí cho cuộc sống vợ chồng.
Về nguyên tắc, tài sản riêng của vợ hoặc chồng hình thành trước khi đăng ký kết hôn thì thuộc quyền sở hữu của người đó. Sau khi kết hôn mà vợ hoặc chồng không làm thủ tục hợp nhất tài sản thì về mặt pháp lý vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó. Theo quy định tại khoản 1 điều 27 Luật HNGĐ thì “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung”.
Khoản 3 Điều 27 cũng xác định: Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
Như vậy trừ những tài sản hình thành trước thời kỳ hôn nhân, tài sản được tặng cho, thừa kế riêng thì mọi tài sản khác hình thành trong thời kỳ hôn nhân đều được coi là tài sản chung vợ chồng.
Do đó, nguyên tắc chung khi giải quyết vụ án ly hôn mà các bên có yêu cầu phân chia tài sản (không thỏa thuận được) thì tòa án phải giải quyết luôn trong vụ án. Nếu hai vợ chồng bạn không thống nhất được việc phân chia căn nhà và đất mà bạn đang đứng tên, thì bạn có quyền yêu cầu tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp bạn hỏi thì khối tài sản là nhà đất của bạn được bố mẹ bạn cho riêng trước khi kết hôn và đứng tên bạn trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà và đất. Bản thân bạn cũng không có thỏa thuận sáp nhập khối tài sản này vào khối tài sản chung của vợ chồng, nên toàn bộ khối tài sản nhà đất trên là tài sản riêng của bạn và không bị phân chia. Tuy nhiên, trong quá trình chung sống thì vợ chồng bạn có tôn tạo, sửa chữa căn nhà nên khi giải quyết ly hôn anh ấy có thể được tính một phần công sức đã đóng góp vào việc sửa chữa căn nhà này thôi.
(Tư vấn bởi luật sư Hứa Trung Kiên – Văn phòng luật sư Bùi Đình Ứng – Đoàn luật sư TP.Hà Nội. Số 29/298 Ngọc Lâm, Long Biên, Hà Nội. ĐT: 04.38730018).
Bạn đọc cần gửi ý kiến, tranh luận, đặt câu hỏi về các vấn đề pháp luật xin gửi về địa chỉ banbandoc@vietnamnet.vn (xin ghi rõ địa chỉ, số điện thoại để chúng tôi tiện liên hệ).
Về nguyên tắc, tài sản riêng của vợ hoặc chồng hình thành trước khi đăng ký kết hôn thì thuộc quyền sở hữu của người đó. Sau khi kết hôn mà vợ hoặc chồng không làm thủ tục hợp nhất tài sản thì về mặt pháp lý vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó. Theo quy định tại khoản 1 điều 27 Luật HNGĐ thì “Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và những tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung”.
Khoản 3 Điều 27 cũng xác định: Quyền sử dụng đất mà vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn được thừa kế riêng chỉ là tài sản chung khi vợ chồng có thỏa thuận.
Như vậy trừ những tài sản hình thành trước thời kỳ hôn nhân, tài sản được tặng cho, thừa kế riêng thì mọi tài sản khác hình thành trong thời kỳ hôn nhân đều được coi là tài sản chung vợ chồng.
Do đó, nguyên tắc chung khi giải quyết vụ án ly hôn mà các bên có yêu cầu phân chia tài sản (không thỏa thuận được) thì tòa án phải giải quyết luôn trong vụ án. Nếu hai vợ chồng bạn không thống nhất được việc phân chia căn nhà và đất mà bạn đang đứng tên, thì bạn có quyền yêu cầu tòa án xem xét giải quyết theo quy định của pháp luật.
Trong trường hợp bạn hỏi thì khối tài sản là nhà đất của bạn được bố mẹ bạn cho riêng trước khi kết hôn và đứng tên bạn trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng nhà và đất. Bản thân bạn cũng không có thỏa thuận sáp nhập khối tài sản này vào khối tài sản chung của vợ chồng, nên toàn bộ khối tài sản nhà đất trên là tài sản riêng của bạn và không bị phân chia. Tuy nhiên, trong quá trình chung sống thì vợ chồng bạn có tôn tạo, sửa chữa căn nhà nên khi giải quyết ly hôn anh ấy có thể được tính một phần công sức đã đóng góp vào việc sửa chữa căn nhà này thôi.
(Tư vấn bởi luật sư Hứa Trung Kiên – Văn phòng luật sư Bùi Đình Ứng – Đoàn luật sư TP.Hà Nội. Số 29/298 Ngọc Lâm, Long Biên, Hà Nội. ĐT: 04.38730018).
Bạn đọc cần gửi ý kiến, tranh luận, đặt câu hỏi về các vấn đề pháp luật xin gửi về địa chỉ banbandoc@vietnamnet.vn (xin ghi rõ địa chỉ, số điện thoại để chúng tôi tiện liên hệ).