Ngày nào cũng thế, bất kể nắng mưa, sáng sớm Năm Hợi dẫn đầu, 'đàn em' theo sau, xếp hàng thứ tự từ lớn đến nhỏ, lục tục ra khỏi sân chùa đi… khất thực.
Chúng cứ lặng lẽ đi dọc đường, qua các khu chợ, khu dân cư. Đoạn đường đàn
heo đi khất thực dài hơn 3km, qua chợ Sóc Trăng, vào tận thành phố, rồi trở về
chùa đúng lúc nhà chùa sắp tụng kinh.
“Thí chủ heo quy y”
Theo sư phó Tú Linh (chùa Mã Tộc, tức chùa Dơi, Sóc Trăng ), người Khmer rất sợ
heo năm móng, ba giò, tức là heo dị tật, có tới năm móng thay vì bốn móng như
bình thường. Còn heo ba giò thực ra không phải là dị tật, chỉ là một chân có màu
đen, một chân có màu trắng. Không rõ truyền thuyết này có từ khi nào, nhưng
người Khmer tin rằng, những con heo đó là cốt tinh của người, nó là linh hồn của
con người đầu thai. Những người đó vốn gây nhiều tội ác, nên bị đày làm kiếp
heo.
Chính vì mang linh hồn của kẻ ác, nên những gia đình nuôi nó sẽ phải gặp tai
họa. Người Khmer tin rằng, gia đình nào nuôi phải con heo này thì sẽ gặp bất
hạnh, gia đình lục đục, vì bị cốt tinh của con heo quấy phá. Tuy nhiêu, nếu giết
heo thì cả nhà sẽ phải đền mạng. Chính vì thế, gia đình nào nuôi phải heo năm
móng, ba giò, thì chỉ có nước cung phụng nó đến già. Khi heo chết, phải mai táng
cẩn thận như người, mới mong thoát kiếp nạn.
Không biết nguyên do từ đâu, nhưng cách đây hơn 20 năm, những gia đình đen đủi
nuôi phải heo năm móng, ba giò, đã nghĩ ra phương thức giải hạn cho mình bằng
cách đẩy “heo quái thai” cho nhà chùa nuôi. Họ tin rằng, nhà chùa là nơi thích
hợp, có thể nâng đỡ linh hồn tội lỗi, bị đày làm kiếp heo. Khi con heo quái thai
được nuôi dưỡng, được nghe kinh phật sám hối thì không phá phách con người nữa
và cũng vì thế mà hóa giải được tai họa. Vậy là nhà chùa biến thành “trang trại
nuôi heo quái thai”, nơi nuôi những con heo bị tạo hóa “tặng” thêm một móng chân
và một cái chân khác màu.
Sư phó Tú Linh cho biết, con heo đầu tiên mà chùa nuôi là vào năm 1989, cách nay
đã 23 năm. Khi đó, chùa Dơi còn khá hoang vu, cây cối rậm rạp, dơi bay rợp trời,
đậu dày đặc trong vườn cây cổ thụ. Trong chùa có bà cụ Khiên, là người trông
nom, quét dọn chùa. Đêm ấy, sau một ngày mệt nhọc vì quét dọn chùa, dẫy cỏ ngoài
vườn, thì bà Khiên nằm ngủ mê mệt. Trong giấc mơ, Bồ Tát hiển linh bảo với bà
rằng, ngày mai, sẽ có một nữ thí chủ đến chùa xin quy y. Bà Khiên giật mình tỉnh
giấc, toàn thân toát mồ hôi. Bà trở dậy, thắp hương trên chính điện. Bà Khiên
tin rằng, Bồ Tát hiển linh đã thông báo với bà một tin trọng đại.
Nghĩa địa heo ở Chùa Dơi. |
Sáng hôm sau, bà Khiên dậy sớm hơn thường lệ. Vừa quét chùa bà vừa ngó chừng ra cổng xem có ai đến không. Ngày đó, chùa Dơi rất vắng, lại chỉ có một cổng nhỏ, nên ai ra vào bà đều kiểm soát được. Gác cửa mãi đến tận trưa mà chẳng thấy nữ thí chủ nào như lời Bồ Tát báo mộng. Nghĩ rằng giấc mộng không hiển linh nên bà Khiên tiếp tục công việc quét dọn của mình.
Bà Khiên ngỡ ngàng khi phát hiện ở phía sau chùa, trong vườn dơi, có một con heo cái rất lớn đang ngủ ngon lành. Không biết heo nhà ai xông vào chùa, làm ô uế không gian thanh tịnh, nên tức mình, bà Khiên cầm chổi đập nhẹ vào mông, đánh thức nó dậy. Tuy nhiên, bà Khiên làm đủ trò mà con heo không chịu dậy, cứ ủn ỉn, rồi rên la. Bà phải nhờ mấy du khách dùng que ngoáy vào tai, “cô nàng” mới chịu ngúc ngoắc cái đầu. Nhưng nó cứ đứng ì một chỗ, không chịu nhúc nhích.
Một du khách bỗng hét lên: “Heo năm móng bà ơi! Heo này thiêng lắm, là cốt tinh của người đấy! Nó vào chùa là có duyên với nhà chùa rồi bà ạ”. Lúc này, bà Khiên mới nhìn xuống chân con heo ấy, hóa ra là heo năm móng thật. Khi ấy, bà mới giật mình nhớ lại giấc mộng đêm qua. Thì ra, nữ thí chủ đến chùa quy y chính là “nàng heo” này.
Bà Khiên không đuổi heo đi nữa, mà dùng nước lá tắm cho vị khách kỳ lạ này như rửa bụi trần. Nhà chùa nghe chuyện bà Khiên kể, rồi chứng kiến những biểu hiện lạ của “thí chủ mới đến cửa chùa”, cũng tin giấc mộng của bà Khiên là điềm báo của Phật. Vì thế, nhà chùa đã làm đủ các thủ tục cần thiết để nhận “cô heo” vào chùa. Bà Khiên chuẩn bị chỗ cho heo ở. Với nhà phật, con heo cũng là một kiếp sống, nên nhà chùa đối xử với heo như mọi thành viên trong chùa. Ngày nó chạy rong trong khuôn viên, tối chui vào ổ ngủ và đến bữa thì được các nhà sư mang đồ ăn cho. Thí chủ quy y kỳ lạ đó được mọi người đặt tên là Năm Hợi.
Đàn heo... khất thực
Chuyện “cô heo” năm móng quy y cửa phật đồn đại ầm ĩ khắp vùng, khiến nhiều người tò mò tìm đến. Thời điểm đó, mỗi ngày có cả trăm người kéo đến xem heo năm móng trong chùa Dơi. Người dân thêu dệt đủ thứ chuyện kỳ quái quanh con heo này. Nghĩ rằng nhà chùa có khả năng hóa giải nghiệp chướng heo năm móng, ba giò nên người dân quanh vùng dắt những con heo này đến gửi nhà chùa nuôi. Thế là trên trời có đàn dơi, dưới đất có đàn heo ủn à ủn ỉn suốt ngày. Cũng từ bấy “cô heo” Năm Hợi trở thành “đại tỉ” của đàn heo quái thai tới hơn chục con. Điều đặc biệt là đàn heo không nghịch ngợm, không ủi đất, không phá hoại lung tung và rất lịch sự, không ị bậy bạ ra chùa.
Ngày nào cũng thế, bất kể nắng mưa, sáng sớm Năm Hợi dẫn đầu, “đàn em” theo sau, xếp hàng thứ tự từ lớn đến nhỏ, lục tục ra khỏi sân chùa đi… khất thực. Chúng cứ lặng lẽ đi dọc đường, qua các khu chợ, khu dân cư. Đoạn đường đàn heo đi khất thực dài hơn 3km, qua chợ Sóc Trăng, vào tận thành phố, rồi trở về chùa đúng lúc nhà chùa sắp tụng kinh.
Người dân hai bên đường thấy đàn lợn đi qua thì bố thí cho đồ ăn. Có lẽ đã “quy y cửa Phật” nên chúng rất hiền, tuyệt nhiên không càn quấy, phá phách gì ngoài đường, ngoài chợ. Người dân cũng rất… kính trọng đàn lợn. Nhiều bà lão khi thấy đàn lợn đi qua nhà mình liền mời dừng lại chơi rồi… dâng trầu và các chú ỉn thảnh thơi nhai bỏm bẻm, miệng đỏ tươi nhìn rất ngộ.
Ở chùa, đàn lợn cũng ăn theo chế độ ăn ngọ, tức là chỉ ăn uống trước 12h mỗi ngày, sau giờ đó là không ăn gì nữa. Khẩu phần ăn của chúng đơn giản như các nhà sư, khất thực được thứ gì thì ăn thứ đó. Đồ ăn chủ yếu là đồ chay. Thế nhưng chẳng hiểu sao chúng lại lớn rất nhanh. Cô “Năm Hợi” đạt kích cỡ khổng lồ nhất, nặng đến 400kg, trông lừng lững như một chú voi con. Năm Hợi ở chùa được 7 năm thì “viên tịch” vì tuổi già.
Sư phó Tú Linh của chùa Mã Tộc cho biết, cuối năm 1996, “Năm Hợi” chọn một nơi yên tĩnh ở góc vườn chùa nằm nghỉ rồi “hóa” một cách thanh thản, như thể tránh cho du khách viếng chùa khỏi trông thấy hình ảnh buồn. Chính những biểu hiện kỳ lạ này mà khi "Năm Hợi" chết, nhiều người đã đến hương khói, cúng vái và họ đều xưng hô là “cô Năm Hợi”. Đêm đêm có nhiều tay ma đề cũng mò mẫm vào khu mộ lợn khấn xin trúng số. Trúng trật thế nào chẳng rõ. Sau khi “Năm Hợi”, cũng như những anh, chị heo khác ở chùa chết, cũng đều được các sư chôn cất trong nghĩa địa sau chùa. Lễ mai táng cũng đầy đủ thủ tục, như mai táng người đã khuất.
Sau khi Năm Hợi “hóa”, một ngày, có người đàn bà từ thành phố Hồ Chí Minh tìm đến chùa, nước mắt sụt sùi bảo với các nhà sư: “Nhiều lần người mẹ quá cố của con báo mộng rằng, mẹ con hóa kiếp thành heo, tên là Năm Hợi, sống ở chùa Mahatup (chùa Dơi, chùa Mã Tộc). Con mong các nhà sư cho con được làm lễ cầu hồn để linh hồn mẹ con được siêu thoát”. Nhà chùa đã đồng ý để người phụ nữ này đạt được ước nguyện.
Lễ cầu siêu hoành tráng xong xuôi, thì người phụ nữ này chỉ đạo thở xây ngôi mộ, vẽ hình một con heo béo tốt lên bia, ghi tên Năm Hợi, với cả ngày “hóa”. Sau lần đó, các chủ gửi heo năm móng, ba giò đến chùa cũng học theo. Khi nào lợn chết, được nhà chùa thông báo, họ đến làm lễ mai táng, rồi xây mồ yên mả đẹp cho heo. Thế là sau ngôi chùa Dơi huyền bí, xuất hiện một nghĩa địa heo rất kỳ lạ. Số lượng mộ heo mỗi ngày một nhiều.
Ngoài nghĩa địa heo thì trong chùa vẫn còn một số con heo 5 móng, 3 giò. Tuy nhiên, chẳng biết do không có “đàn chị” Năm Hợi chỉ đạo hay bởi lẽ gì mà sinh hoạt đàn heo này không có quy củ. Chúng ủi đất , phá phách lung tung. Thành thử, nhà chùa phải xây chuồng trại nhốt lại. Những con heo trong chuồng đều rất to, chỉ nằm dài chờ ăn. Hàng ngày nhà chùa phải chia sẻ khẩu phần ăn vốn đã không nhiều nhặn của mình cho chúng. Nhà sư có thể nhịn đói nhưng những chú heo được gửi lên chùa này mà đói thì kêu inh ỏi. Buổi trưa, chúng nằm phưỡn mình ngủ, thở phì phò, hai răng nanh thò ra sắc nhọn như nanh hổ, trông phát ớn.
(Theo GĐ&CS)