- Ngày 10/1, lần đầu tiên Bảo tàng Lịch sử quốc gia tổ chức trưng bày 18 bảo vật quốc gia Việt Nam để khách tham quan được khám phá những câu chuyện lịch sử, văn hóa của bảo vật quốc gia.
Cùng ngắm 18 trong tổng số 118 bảo vật quốc gia được trưng bày lần này. Thời gian trưng bầy từ 10/1 đến tháng 5/2017.
Trống Hoàng Hạ: Chất liệu Đồng (Văn hóa Đông Sơn), cách ngày nay khoảng 2000 – 2500 năm. Quyết định công nhận Bảo vật quốc gia Việt Nam năm 2012. Phát hiện tại xóm Nội Thôn, làng Hoàng Hạ, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Sơn Bình (nay là Hà Nội). Trống đồng Hoàng Hạ là loại trống H1 điển hình, kiểu dáng, đề tài hoa văn trang trí độc đáo còn khá nguyên vẹn. Trống đồng Hoàng Hạ có kích thước lớn là một tiêu bản đặc biệt được xếp vào cùng nhóm trống đồng Ngọc Lũ, nhóm trống đặc trưng tiêu biểu nhất. Vì vậy trống đồng Hoàng Hạ xứng đáng được công nhận là Bảo vật Quốc gia. |
Thạp Đào Thịnh (Đồng). Văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2000 – 2500 năm. Quyết định công nhận Bảo vật quốc gia Việt Nam năm 2012. Trong văn hóa Đông Sơn, thạp đồng là di vật tiêu biểu sau trống đồng và chủ yếu chỉ xuất hiện trong phạm vi phân bố của nền văn hóa này. Trong hàng trăm chiếc thạp đã phát hiện thì thạp Đào Thịnh là chiếc thạp có kích thước lớn nhất, hoa văn trang trí phong phú, chặt chẽ, tinh mỹ và độc đáo nhất. |
Đặc biệt trên nắp thạp có gắn đối xứng tâm 4 khối tượng nam nữ đang giao hoan, loại tượng mới gặp duy nhất trong nghệ thuật Đông Sơn. Bộ phận sinh dục của người đàn ông được nhấn mạnh bằng cách phóng đại so với tỷ lệ cơ thể, phản ảnh tín ngưỡng phồn thực với khát vọng vạn vật sinh sôi nẩy nở của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Việc người nam đeo dao găm ngay cả trong lúc sinh hoạt tình dục cho thấy vũ khí luôn thường trực bên người, phản ảnh trong văn hóa Đông Sơn đã phát sinh xung đột xã hội dẫn tới chiến tranh, là tiền đề hình thành các thủ lĩnh quân sự, tạo nên một trong những cơ sở vật chất hình thành nhà nước sơ khai Văn Lang – Âu Lạc. |
Cây đèn hình người quỳ (Đồng). Văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2000 – 2500 năm. Quyết định công nhận Bảo vật quốc gia Việt Nam năm 2012 Cây đèn thể hiện theo hình tượng một người đàn ông mình trần đóng khố tư thế đang quỳ, hai tay nâng đĩa đèn. Mình trần, thân dưới mặc khố. Tượng có khuôn mặt bầu, mắt mở to, miệng hơi mỉm cười, quanh môi có ria mép. Đầu tượng được gắn vương miện, tóc để chỏm. Hai vai và sau tượng gắn 3 cành chữ S, mỗi cành chữ S đỡ một đĩa đèn và gắn 1 hình người đang quỳ. Trên hai đùi và đằng sau người đàn ông có 4 nhạc công cũng ở tư thế quỳ, hai nhạc công đang thổi sáo. Cánh tay, cổ tay có đeo trang sức, tai đeo hoa hình khuyên to tròn. Trên vai và quanh bụng được trang trí những mô típ chuỗi hoa sen. Cây đèn hình người quỳ là một hiện vật độc bản, đại diện cho nghệ thuật cổ tiêu biểu, độc đáo vào thời kỳ cuối văn hóa Đông Sơn, có sự giao lưu với văn hóa Hán. Cây đèn thể hiện kỹ thuật đúc tài khéo và phản ánh thảm mỹ cảm quan về vũ trụ của cư dân cổ giai đoạn này. Chính vì vậy, cây đèn hình người quỳ xứng đáng đề cử xem xét xếp vào danh mục Bảo vật Quốc gia. |
Tượng hai người đàn ông cõng nhau thổi khèn (Đồng). Văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2000 – 2500 năm. Quyết định công nhận Bảo vật quốc gia Việt Nam năm 2012 Là pho tượng sinh động nhất trong hệ thống tượng tròn Đông Sơn. Tượng miêu tả hai người đàn ông đóng khố, đầu chít khăn, đeo khuyên tai lớn chạm vai. Người cõng trong tư thế khom lưng, hai tay vòng ra sau ôm đỡ người ngồi trên lưng, hai chân như đang nhún nhảy theo điệu nhạc. Người được cõng đang say sưa thổi khèn. Tượng được thể hiện theo khối thủng, có nhiều góc cạnh và nhiều đường cong lượn, đòi hỏi kỹ thuật khuôn đúc phức tạp. Bởi vậy, pho tượng không chỉ là bằng chứng về một loại hình âm nhạc truyền thống dân tộc đã được khởi nguồn từ văn hóa Đông Sơn mà còn phản ảnh đời sống tinh thần phong phú, sự lạc quan, yêu đời cũng như trình độ đúc đồng đỉnh cao của người Việt cổ. |
Trống Ngọc Lũ (Đồng). Văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2000 – 2500 năm. Quyết định công nhận Bảo vật quốc gia Việt Nam năm 2012 Phát hiện tại xã Như Trác, huyện Lý Nhân, sau được chuyển về thờ tại đình làng Ngọc Lũ, Hà Nam. Năm 1902, trống được trường Viễn đông Bác Cổ sưu tầm. Từ năm 1958 đến nay trống đồng Ngọc Lũ luôn được lưu giữ, trưng bày tại hệ thống trưng bày chính của Bảo tàng Lịch sử quốc gia. Trống Ngọc Lũ thuộc nhóm A, loại I Heger. Là chiếc trống đẹp nhất, nguyên vẹn nhất và có hình dáng cân đối, hài hòa nhất trong những trống Đông Sơn đã phát hiện. Hoa văn trang trí vô cùng phong phú, hoàn hảo, tinh mỹ. Ngoài các mô típ hoa văn hình học còn có các vành, băng hoa văn chính tả thực cảnh diễu hành hóa trang, hát đối đáp, đánh trống, giã gạo, hình nhà cầu mùa, nhà sàn, hình thuyền chiến với các chiến binh đang thực hiện nghi lễ hiến tế, hình các loại động vật như hươu, các loài chim... Thông qua đó, chúng ta thấy lại được phần nào đời sống vật chất, tinh thần, tư duy khoa học và thế giới tự nhiên đương thời. Trống đồng Ngọc Lũ với những nét đặc sắc nói trên, không chỉ là biểu hiện cao nhất của công nghệ đúc đồng mà còn là sản phẩm lao động, tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu cho trình độ trí tuệ, tài năng sáng tạo tuyệt vời của người Đông Sơn, là biểu hiện rõ nét, tập trung của văn minh sông Hồng và trở thành biểu tượng tồn vong của cộng đồng cư dân Lạc Việt. |
Ấn “Sắc mệnh chi bảo” (Vàng). Thời Nguyễn, năm Minh Mệnh thứ 8, 1827. Quyết định công nhận Bảo vật quốc gia Việt Nam năm 2015 Ấn có núm hình rồng cuốn. Lưng ấn khắc 2 dòng chữ Hán: Thập tuế hoàng kim, trọng nhị bách nhị thập tam lượng lục tiền. (Vàng 10 tuổi, nặng 223 lạng 6 tiền - khoảng 8,3kg) và Minh Mệnh bát niên thập nguyệt cát nhật tạo. (Đúc vào ngày lành tháng 10 năm Minh Mệnh 8, 1827). Mặt ấn đúc nổi 4 chữ triện Sắc mệnh chi bảo. Ấn được dùng để ban cấp cáo sắc cho văn võ cùng phong tặng thần và người. Là hiện vật độc bản, biểu trưng cho quyền lực nhà Nguyễn, có giá trị đặc biệt trong sưu tập kim bảo triều Nguyễn hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia. |
Trống Cảnh Thịnh (Đồng). Thời Tây sơn, niên hiệu Cảnh Thịnh, 1800 Quyết định công nhận Bảo vật quốc gia Việt Nam năm 2012. Trống đồng Cảnh Thịnh là hiện vật độc bản trong phức hợp trống đồng Việt Nam. Tạo hình trống thể hiện sự độc đáo khi mô phỏng theo kiểu trống da truyền thống. Hoa văn trang trí chính đúc nổi đề tài Tứ linh mang ý nghĩa biểu trưng cho đất nước thái bình thịnh trị, xã hội an lạc và Long Mã cõng Hà đồ, Thần Quy chở Lạc thư, hai biểu tượng khởi nguyên của Kinh Dịch – tư tưởng triết học của người Á Đông về quy luật của sự biến đổi. Một giá trị đặc biệt khác của trống đồng Cảnh Thịnh chính là phần tư liệu. Các dòng lạc khoản khắc trên thân cho biết trống được đúc vào tháng 4 nhuận năm Cảnh Thịnh thứ 8 thời Tây Sơn (1800) tại Chùa Cả (Linh Ứng tự), tức Chùa Nành, xã Ninh Hiệp, Gia Lâm, Hà Nội ngày nay. Đặc biệt, một bài minh dài 222 chữ dẫn thuyết lý do, mục đích đúc trống nói về người trong xã là bà Nguyễn Thị Lộc, vợ của Tổng Thái giám Giao quận công vào năm Vĩnh Hựu thứ 2 đời vua Lê Ý Tông (1736) đã tập phúc góp công dựng chùa Linh Ứng. Ghi nhớ công lao của bà, nhân dân trong xã đã cùng nhau đóng góp công sức, tiền của để đúc trống và những đồ thờ khác dâng lên ban Phật để lưu truyền, nhắc nhở con cháu đời sau luôn ghi nhớ công đức của tiền nhân. |
Bình vẽ thiên nga (Gốm hoa lam). Thời Lê sơ, thế kỷ 15 Quyết định công nhận Bảo vật quốc gia Việt Nam năm 2012 Là chiếc bình có kích thước lớn nhất, nguyên vẹn nhất trong sưu tập hiện vật độc bản khai quật từ tàu đắm Cù Lao Chàm, thành phố Hội An. Bình có dáng cao, vai phình, thân thuôn nhỏ về đáy tạo nên sự thon thả, thanh thoát. Hoa văn trang trí chia thành 7 băng phủ kín thân từ miệng xuống đáy. Băng hoa văn chủ đạo chiếm không gian lớn nhất ở giữa thân bình vẽ phong cảnh với 4 con thiên nga theo tích “Phi, Minh, Túc, Thực”: một con đang dang cánh bay, một con đang nghển cổ kêu, một con đang rúc đầu vào cánh ngủ và con còn lại đang kiếm ăn. Đây là cách chơi chữ và mượn hình biểu ý của người xưa nhằm gửi gắm ước nguyện được thăng tiến, tiền đồ sáng lạn, giàu có, no đủ. Thời Lê sơ là giai đoạn phát triển huy hoàng của nghệ thuật gốm sứ cổ Việt Nam. Đồ gốm thời kỳ này không những phong phú về dòng men, đa dạng về loại hình, kiểu dáng mà hoa văn trang trí cũng rất sinh động. Sản phẩm gốm đương thời đã khẳng định được uy tín và tham gia mạnh mẽ vào giao lưu thương mại quốc tế. |
Ấn vàng “Đại Việt quốc Nguyễn Chúa vĩnh trấn chi bảo” thời Lê Trung Hưng niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 5 (1709) cạnh 10,84cm x10,84cm; dày 1,1cm, cao 6,3cm. Ấn hình vương, núm tạo hình sư tử hí cầu, rìa trái lưng ấn khắc dòng chữ Hán “Kế bát thập kim, lục hốt tứ lạng, tứ tiền tam phân” (dịch ra là: Cộng vàng tám tuổi, nặng 6 thoi, 4 lạng, 4 tiền, 3 phân). |
Ấn “Môn hạ sảnh ấn” (Đồng). Thời Trần, niên hiệu Long Khánh thứ 5 (1377) Quyết định công nhận Bảo vật quốc gia Việt Nam năm 2012 Phát hiện năm 1962 tại xã Hương Giang, huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh. Ấn hình vuông, đế ấn tạo ba cấp, núm ấn hình bia đá. Cạnh phải lưng ấn khắc dòng chữ Hán: “Môn hạ sảnh ấn” - ấn của sảnh Môn hạ. Cạnh trái lưng ấn khắc dòng chữ “Long Khánh ngũ niên ngũ nguyệt nhị thập tam nhật tạo” - chế tạo vào ngày 23 tháng 5, niên hiệu Long Khánh 5, đời vua Trần Duệ Tông (trị vì: 1372 - 1377). Mặt ấn hình vuông, đúc 4 chữ kiểu triện cùng nội dung chữ trên cạnh phải lưng ấn “Môn hạ sảnh ấn”. Sảnh Môn hạ là một trong những cơ quan hành chính trung ương cao nhất thời Trần, do vua Trần Minh Tông (trị vì: 1314 - 1329) đặt ra năm Khai Thái 2 (1325) thay cho Hành khiển ty ở cung Quan triều thuộc Nội mật viện. Đây là cơ quan thân cận của nhà vua, có nhiệm vụ giữ bảo ấn, truyền lệnh của vua tới các quan, nhận lời tấu lên vua và các công việc lễ nghi trong cung. Chức quan ở sảnh này đều do các quan đại thần đảm nhiệm. “Môn hạ sảnh ấn” được dùng để đóng trên những văn bản hành chính quan trọng của triều đình bắt đầu từ đời vua Trần Phế Đế (trị vì: 1377 - 1388) về sau. Cho tới nay, những phát hiện về ấn đồng các triều đại phong kiến Việt Nam không nhiều. “Môn hạ sảnh ấn” là chiếc ấn đồng có nội dung rõ ràng nhất, niên đại cụ thể nhất liên quan đến lịch sử hành chính trung ương triều Trần. |
Chuông chùa Vân Bản (Đồng). Thời Trần, thế kỷ 13 – 14 Quyết định công nhận Bảo vật quốc gia Việt Nam năm 2013 Là chiếc chuông cổ nhất đồng thời có kích thước lớn nhất, uy nghi nhất của nền văn minh Đại Việt. Quai chuông gắn Bồ Lao hình rồng 2 đầu. Thân chuông chia thành 8 ô ngăn các bởi các đường gờ nổi. Miệng chuông đúc nổi băng cánh sen kép. Chuông có 6 núm gõ hình hoa sen nở mãn khai. |
Trên thân chuông khắc minh văn chữ Hán nói về những người có công khai phá sơn lâm, mở mang đất đai lập dựng chùa Vân Bản là nhà sư tu khổ hạnh và Cư sĩ Đại Ố; những người cúng dường đất cho chùa là Thị vệ nhân dũng thủ Nguyễn Văn Kịp và vợ Chu Thị Trãi cùng anh vợ là Chu Lâm. Đặc biệt, minh văn cho biết lai lịch chuông do vị quan Tả bộc xạ cúng tiến vào chùa. Minh văn còn là lời dặn gửi đời sau phát tâm công đức giữ gìn chùa, không để bị hủy hoại, không được khuyết thiếu việc hương hỏa. Hoa lợi từ ruộng đất cúng dường thì dành cho cúng lễ, giỗ chạp. Chuông là nguồn tài liệu quý để nghiên cứu lịch sử, văn hóa Phật giáo Việt Nam nói chung, thời Trần nói riêng. |
Thống gốm Hoa nâu: Thời Trần (thế kỷ 13-14) đường kính miệng: 35cm; đường kính đáy 34cm; cao 57cm; Thống gốm hoa nâu được phát hiện khi đào giếng tại khu đền Trần (thôn Tức Mạc, phường Lộc Vượng, TP Nam Định năm 1972). Thống có dáng tròn mập, hình khối chắc khoẻ, mang đặc trưng gốm thời Trần, miệng rộng, vain gang, trạm nổi bằng cánh sen 2 lớp cánh. |
Bia Võ Cạnh (Đá cát). Văn hóa Chămpa. Thế kỷ 3 – 4. Quyết định công nhận Bảo vật quốc gia Việt Nam năm 2013 Là tấm bia cổ nhật Đông Nam Á. Bia là khối đá có hình trụ đứng. Trên 3 mặt khắc chữ Sanskrit. Đây là tấm bia cổ nhất còn lại của Vương quốc cổ Champa. Bia được khắc bằng chữ Phạn cổ cho biết nhiều thông tin có giá trị về lịch sử Vương triều Tiền vương quốc Nam Chăm. Minh văn còn cho biết sự du nhập và ảnh hưởng mạnh mẽ của Phật giáo vào Chămpa từ sớm. |
Mộ thuyền Việt Khê Văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2000 – 2500 năm. Quyết định công nhận Bảo vật quốc gia Việt Nam năm 2013 Đây là loại quan tài bằng thân cây khoét rỗng, có kích thước lớn nhất trong số những ngôi mộ có quan tài bằng thân cây khoét rỗng hay còn gọi là một thuyền đã phát hiện ở Việt Nam. Bên trong mộ chứa 109 đồ tùy táng gồm chủ yếu là đồ đồng, bao gồm các loại hình vũ khí, nhạc khí, công cụ lao động và đồ dùng sinh hoạt. Đây là mộ thuyền có kích thước lớn nhất, hiện trạng nguyên vẹn nhất, chứa đựng nhiều đồ tùy táng quý hiếm của văn hóa Đông Sơn, là nguồn tài liệu nghiên cứu các ngành nghề thủ công truyền thống và lịch sử hình thành giai cấp trong xã hội Đông Sơn. |
Bia điện Nam Giao (Đá). Thời Lê Trung hưng, năm Vĩnh Trị 4 (1679) Quyết định công nhận Bảo vật quốc gia Việt Nam năm 2015 Bia hình chữ nhật, trán cong hình bán nguyệt đặt trên đế hình khối chữ nhật ba cấp. Diềm trán bia chạm khắc hình lưỡng long chầu nguyệt, xung quanh chạm rồng, phượng, mây, hoa mẫu đơn, cúc, băng lá đề kép và vân mây hình khánh. Xung quanh đế bia chạm khắc nổi long mã và hoa lá. Mặt bia khắc bài ký về việc chỉnh đốn, sửa chữa Điện Nam Giao Chiêu sự. Bia điện Nam giao là một trong những di vật có giá trị nhất còn sót lại của Đàn Nam Giao Thăng Long. Phản ánh rõ nét ý nghĩa lịch sử điện Nam Giao và lễ tế Nam Giao ở Thăng Long, nghi lễ lớn nhất của các vương triều Lý – Trần – Lê để tế Trời – Đất cầu mưa thuận gió hòa, quốc thái dân an. |
Bản thảo “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” Quyết định công nhận Bảo vật quốc gia Việt Nam năm 2012 Hiện vật có giá trị đặc biệt, liên quan đến một sự kiện trọng đại của đất nước, gắn bó với cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh. “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” không chỉ có ý nghĩa lớn lao về lịch sử, mà còn mang tính nhân văn, có giá trị về ngôn ngữ tiếng Việt. Với hai trang viết giản dị, dễ hiểu, tinh tế nhưng hào hùng, hừng hực khí thế xung thiên, lời kêu gọi đã diễn tả được những tư tưởng, ý chí, tình cảm của cả dân tộc Việt Nam bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ 9 năm chống thực dân Pháp. |
Sách Đường Kách mệnh Quyết định công nhận Bảo vật quốc gia Việt Nam năm 2012 “Đường Kách mệnh” là tập hợp những bài giảng của đồng chí Nguyễn Ái Quốc trong thời gian hoạt động cách mạng ở Quảng Châu (Trung Quốc) những năm 1925 – 1927, do Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông ấn hành bí mật và chuyển về nước. “Đường Kách mệnh” là sự vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê nin về đấu tranh giải phóng dân tộc gắn với cách mạng vô sản, là nền tảng cho việc tìm hướng đi mới cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của cách mạng Việt Nam và được coi là văn kiện lý luận chính trị đầu tiên của Đảng, đặt cơ sở tư tưởng cho đường lối của cách mạng Việt Nam. |