- Ở Việt Nam có một địa chỉ đặc biệt, trong hơn 40 năm, cho tới tận cách đây 3 năm, chỉ có giảng viên người Việt Nam làm việc với sinh viên đủ mọi quốc tịch, trừ quốc tịch… Việt Nam.

Vào cuối năm 1968, trên cơ sở Tổ Việt ngữ trực thuộc Trường ĐH Tổng hợp Hà Nội - khoa Tiếng Việt được thành lập với chức năng đào tạo Tiếng Việt và Văn hóa Việt Nam cho người nước ngoài đến học theo hiệp định giữa chính phủ Việt Nam và các nước.

Đến năm 1995, để đáp ứng nhu cầu phát triển mới, khoa Tiếng Việt được đổi tên thành khoa Tiếng Việt và Văn hóa Việt Nam cho người nước ngoài.

{keywords}

Lớp học tại khoa Tiếng Việt những năm 70

Trước xu thế hội nhập quốc tế, vào giữa năm 2008, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐHQG Hà Nội) đã giao cho Khoa thực hiện chương trình đào tạo ngành Việt Nam học và cho phép đổi tên khoa Tiếng Việt và Văn hóa Việt Nam cho người nước ngoài thành khoa Việt Nam học và Tiếng Việt.

Từ chỗ chỉ đào tạo các chương trình hiệp định, các chương trình ngắn hạn cho người nước ngoài, đến nay, Khoa đang triển khai 4 chương trình đào tạo lớn gồm: Chương trình đào tạo theo hiệp định, chương trình đào tạo cử nhân Việt Nam học cho người nước ngoài, chương trình đào tạo cử nhân Việt Nam học cho người Việt Nam và chương trình đào tạo tiếng Việt thực hành ngắn hạn....

“Lò” đào tạo đại sứ, sứ giả văn hóa Việt

45 năm qua, khoa Việt Nam học và Tiếng Việt đã đào tạo được trên 8000 sinh viên nước ngoài, trong đó có trên 100 cử nhân. Từng có một câu nói vui là khoa có “chuẩn đầu ra” là… đại sứ.

Nhiệm vụ chính của khoa chắc chắn không phải là đào tạo ra “đại sứ”, nhưng lại có một thực tế là nhiều cựu sinh viên của khoa, kể cả tiền thân là Tổ Việt ngữ, lại trở thành các nhà ngoại giao cấp cao. Cho đến nay, trong số các sinh viên tốt nghiệp tại Khoa, có 12 người đã trở thành Đại sứ Đặc mệnh Toàn quyền tại Việt Nam. Có thể kể đến các đại sứ Lý Gia Trung, Tề Kiến Quốc, Hồ Càn Văn của Trung Quốc, đại sứ Anteni Valeriou của Rumani, đại sứ Fredesman Turro Gonsalez của Cuba…

PGS.TS Nguyễn Thiện Nam, chủ nhiệm Khoa Việt Nam học và Tiếng Việt nhớ lại, “một buổi chiều tháng 8, tôi nghe tiếng gõ cửa phòng làm việc, thấy một người châu Á đứng tuổi xuất hiện. Anh tự giới thiệu bằng tiếng Việt rằng mình là người Mông Cổ, sinh viên cũ của khoa từ năm 1978 – 1982, bây giờ là đại sứ nước CHND Mông Cổ tại Việt Nam. Còn có một sinh viên cũ – sinh viên đầu tiên trong cuộc đời dạy Tiếng Việt cho người nước ngoài của tôi – tên là Saadi Salama, người Palestine. Khi đó tôi 21 tuổi còn Saadi 19 tuổi. 31 năm sau gặp lại nhau, Saadi Salama đã là đại sứ của Palestine tại Việt Nam”.

{keywords}
{keywords}
Sinh viên quốc tế đang học tại Khoa

Hơn 8000 cựu sinh viên nước ngoài là lực lượng quan trọng góp phần quảng bá và nâng cao uy tín của Khoa và Trường, đồng thời mở rộng cầu nối, tăng cường quan hệ hợp tác và hữu nghị giữa Việt Nam và các nước trên thế giới.

Năm 2010, Khoa bắt đầu tuyển cả sinh viên Việt Nam. PGS.TS Nguyễn Thiện Nam cho biết, điều tạo nên sự khác biệt với các cơ sở cùng đào tạo ngành Việt Nam học là Khoa cung cấp tri thức nền rộng và tạo điều kiện để sinh viên có thể đi sâu vào một số lĩnh vực cụ thể như du lịch, báo chí, văn phòng, tư vấn, dạy tiếng...Đây là khoa đào tạo ngành Việt Nam học duy nhất tại Việt Nam hiện nay vừa có sinh viên quốc tế vừa có sinh viên Việt Nam được đào tạo chính thức.

Mới chỉ sau 4 khóa tuyển sinh ngành Việt Nam học cho sinh viên Việt Nam, số lượng thí sinh nộp đơn thi vào ngày càng tăng. Với khóa đầu tiên, khoa còn phải tuyển nguyện vọng 2 thì tới năm ngoái và năm nay, điểm chuẩn của khoa Việt Nam học và Tiếng Việt đã đứng ở “top 5” trong 16 đơn vị đào tạo của trường.

Từ năm học 2013 – 2014, ngành Việt Nam học là 1 trong 7 ngành khoa học cơ bản của Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, sinh viên được hỗ trợ tài chính với mức 300 nghìn đồng/ người/ tháng. Chương trình này trước mắt sẽ được kéo dài tới năm 2017.

Những ký ức không phai

Trong hồi ức về khoa, thầy Phan Văn Hải, người về Tổ Việt ngữ từ năm 1965 và về hưu năm 1995, kể lại: “Ngày 5/5/1967, máy bay Mỹ ném bom xuống khu công nghiệp Thượng Đình, cách nhà D Trường ĐH Ngoại ngữ và ký túc xá Mễ Trì một cánh đồng hẹp. Ngày 6/5/1967, cấp trên quyết định đưa lưu học sinh nước ngoài đi sơ tán. 4h sáng ngày 7/5/1967, tất cả thầy cô giáo và lưu học sinh từ nhà B7 bis Bách Khoa đi xe đạp nhằm hướng thôn Hưu Tràng (Đan Phượng, Hà Tây) mà tập kết. Trong hoàn cảnh sơ tán chiến tranh, Tổ Việt ngữ và Ban quản lý lưu học sinh đều ở xa Ban giám hiệu trường, việc liên hệ rất khó khăn.

{keywords}

Phòng đọc của Khoa năm 1999

Có nhiều việc cấp thiết không thể xin ý kiến của Bộ và trường. Mỗi lần có việc cần thì cán bộ Ban quản lý lưu học sinh phải từ Hưu Tràng lên Đại Từ (Bắc Ninh), đi đêm bằng xe đạp qua các trọng điểm đánh phá của máy bay Mỹ như ga Phổ Yên, thành phố Thái Nguyên.

GS Chúc Ngưỡng Tu, một trong những nhà Việt Nam học nổi tiếng của Trung Quốc, người đã dịch bộ ba tiểu thuyết “Ông cố vấn” của nhà văn Hữu Mai sang tiếng Trung. Với GS Chúc Ngưỡng Tu, khoảng thời gian học tiếng Việt và văn hóa Việt Nam tại nhà B7 bis trong những năm tháng chiến tranh gian khổ của Việt Nam, âm vang làm giáo sư nhớ nhất là câu “Đồng bào chú ý, đồng bào chú ý, máy bay địch cách bầu trời Hà Nội… km… Mọi người hãy nhanh chóng xuống hầm trú ẩn.

“Ban Chủ nhiệm Khoa Tiếng Việt ngoài việc lãnh đạo chuyên môn dạy và học ra, lại còn phải lo nơi ăn chốn ở cho sinh viên nước ngoài, trong hoàn cảnh thiếu thốn mọi điều kiện tối thiểu nhất. Người Việt Nam thì đã quen chịu đựng mọi thiếu thốn gian khổ, nhưng đối với những sinh viên nước ngoài đã quen cuộc sống đầy đủ tiện nghi ở nước họ, nay sang đây, phải chịu cảnh trời nóng mà mất điện, mất nước xoành xoạch, quạt cũng thiếu, làm gì có điều hoà nhiệt độ ở các phòng như ngày nay. Khu nhà vệ sinh thì nhiều muỗi quá, những con muỗi được nuôi dưỡng ở sông Sét to gấp đôi con muỗi thường. Sinh viên chịu không thấu, phải kêu ca với chị Nhẫn, người phụ trách y tế trong khoa, nhưng chị Nhẫn cũng đành chịu, biết làm thế nào” – cô Lê Thanh, cựu giảng viên của khoa bùi ngùi nhớ lại.

{keywords}

Nhiều thế hệ nhà giáo, cán bộ công chức đã có những cống hiến đối với sự phát triển và những thành tựu của Khoa, trong đó có những tên tuổi như: cố PGS Nguyễn Thạch Giang, PGS. Đỗ Thanh, PGS. Bùi Phụng, PGS. Nguyễn Anh Quế, GS Hoàng Trọng Phiến, GS Đinh Văn Đức, PGS Đinh Thanh Huệ, PGS Nguyễn Văn Mệnh, TS Đặng Văn Đạm, nhà giáo Hà Vinh, thầy Trần Khang...

Cô sinh viên năm cuối Phạm Thị Cảnh (K55 Việt Nam học) thì bày tỏ niềm tự hào “Được học tập tại khoa Việt Nam học và Tiếng Việt, được trau dồi thêm kiến thức, kinh nghiệm để lập nghiệp, được có thêm nhiều bạn bè, được rèn luyện kĩ năng sống. Tôi cảm thấy mình trưởng thành hơn rất nhiều và luôn cảm thấy rất tự hào vì được học ở đây. Hãy học tập và vui chơi hết mình.

"Nếu ai hỏi giấc mơ của tôi là gì? Tôi tự hào và hét lớn, giấc mơ của tôi ở chính khoa Việt Nam học và Tiếng Việt - nơi có thầy cô, bạn bè tôi" - cô Cảnh xúc động.

Chiến lược 10 tốt: Để phát triển, khoa có một chiến lược tổng hợp được cụ thể hóa thành 5 cặp nhiệm vụ: Giáo viên tốt, sinh viên tốt – Chương trình tốt, giáo trình tốt – Nghiên cứu tốt, ứng dụng tốt – Quan hệ quốc tế tốt, chuyên nghiệp hóa tốt – Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần thật tốt cho cán bộ viên chức của khoa.

  • Chi Mai