- Năm nay, kỳ thi ĐH lại chứng kiến sự giảm sút không phanh của lượng hồ sơ khối C và hồ sơ dự thi vào các ngành khoa học xã hội. Cùng với đầu vào gian nan khiến các chuyên gia đầu ngành lo ngại số người quan tâm đến nhóm ngành này đang ở mức báo động đỏ.
TIN BÀI KHÁC

Có nơi chẳng thu nổi 1 hồ sơ khối C
Lại thêm một hồi chuông gióng lên cảnh báo số phận nhóm ngành KHXH khi kỳ thi ĐH – CĐ năm nay, hồ sơ lựa chọn các ngành KHXH giảm sút quá mạnh.

Theo Ông Vũ Mạnh Khiêm, người trực tiếp thu hồ sơ của thí sinh tự do khu vực quận Hoàn Kiếm: “Lượng hồ sơ đăng ký dự thi vào vào các trường thuộc khối ngành kinh tế chiếm khoảng 75%. Riêng khối C không có hồ sơ nào. Mới có một thí sinh đăng ký dự thi vào ĐH KHXH&NV nhưng lại thi khối B" – thông tin trên Dân Việt cho biết.
Gọi thí sinh vào phòng thi của HV Báo chí tuyên truyền năm 2008. Ảnh: Lê Anh Dũng

Vietnamplus phản ánh ở trường Trung học phổ thông Việt Đức, chỉ vẻn vẹn có... 3 bộ hồ sơ khối C trong tổng số hơn 2.200 hồ sơ đăng ký. Trong khi đó, lượng hồ sơ khối C của trường năm ngoái là 42 bộ.

Tình hình ở phòng Giáo dục và Đào tạo huyện Từ Liêm, các trường Trung học phổ thông Minh Khai, huyện Quốc Oai, trường Trung học phổ thông Ba Vì, huyện Ba Vì, Hà Nội, …cũng không có gì khả quan hơn.

Cũng theo Vietnamplus, ở phía Nam, ông Nguyễn Quốc Cường, chuyên viên tư vấn tuyển sinh, Cơ quan đại diện Bộ Giáo dục và Đào tạo tại Thành phố Hồ Chí Minh cho biết: theo thống kê sơ bộ thì đa số các hồ sơ đều đăng ký dự thi vào các khối ngành kinh tế và kỹ thuật, rất ít hồ sơ chọn các khối thi ngành nông-lâm và các khối thi ngành xã hội.

Lượng hồ sơ đăng ký dự thi ít khiến các trường nhóm ngành KHXH chật vật tuyển sinh. Trên báo Dân trí, tỷ lệ chọi của trường ĐHQG T.P Hồ Chí Minh giảm từ 6, 26 (2008) xuống còn 4,55 (năm 2010). Năm 2010, trường có tới 16 ngành và chuyên ngành lấy điểm chuẩn nguyện vọng 1 ở mức 14 mới đủ chỉ tiêu.

Khoa Tâm lý của ĐH Văn Hiến suốt 12 năm qua chưa bao giờ tuyển đủ chỉ tiêu, mặc dù chỉ tiêu hàng năm chỉ có 70 sinh viên.

ĐHKHXH & NV – ĐHQG Hà Nội trong những năm gần đây đã phải tuyển hàng trăm thí sinh NV2 để có thể đảm bảo đủ chỉ tiêu.

Lỗi trước tiên ở giáo viên?

Làm thế nào các môn KHXH trở nên hữu ích và hấp dẫn người học đã nhiều lần được nói đến, nhưng vẫn như nước đổ lá khoai. Người dạy cứ dạy, người học cứ học theo lối cũ. Càng ngày, việc dạy và học các môn này càng gây mất niềm tin trong xã hội, khiến các chuyên gia đầu ngành đau đầu tìm lối thoát. Nguyên nhân chính luôn được quy cho người trực tiếp đưa các môn học này đến HS, đó là giáo viên.

Em Hồng Thu, học sinh trường THCS Việt Nam- Angieri kể lại chuyện của chính mình: “Trước kia, chưa bao giờ em thấy hứng thú với mấy môn “học thuộc””.Năm cuối cấp, bố mẹ mời gia sư về dạy. Cô giảng bài rất có cảm xúc, luôn liên hệ đến những sự việc rất gần gũi trong cuộc sống hằng ngày, giải thích rất hấp dẫn, chân thực hoàn cảnh lịch sử của tác phẩm, phong cách của từng nhà văn.

Nhiều lần, em còn thấy cô rơm rớm nước mắt khi giảng bài Con cò của Chế Lan viên, Nói với con của Y Phương. Bỗng nhiên, em cảm nhận môn Văn rất khác và dần dần viết được. Khi dạy em, cô mất hai buổi đầu nghe em nói và cô giải thích ích lợi mấy môn XH. Em thay đổi suy nghĩ từ đó!”

Trên báo Giáo dục TP. Hồ Chí Minh, Ông Nguyễn Đức Hiệp, giáo viên Vật lý từng dạy tại trường THPT chuyên Trần Đại Nghĩa (TP.HCM) khẳng định, bản thân các môn KHXH-NV không thiếu sức hút, chỉ là không có người chuyển tải sức hút đó đến học trò.

Ông Hiệp và TS. Hồ Quốc Hùng, trưởng ngành Việt Nam học, trường ĐH Văn Hiến cùng chung nhận định: Chính lỗi dạy kiểu hàn lâm, học thuộc bài văn mẫu khiến các môn XH từ trước đến nay bị gán cái tên “học thuộc” làm cho học sinh sợ hãi, học gạo, thiếu sự sáng tạo và giảm khả năng tưởng tượng.

Các em không thấy được ích lợi gì của môn XH khi  học như vậy thì làm sao có thể yêu thích và lựa chọn nó?- TS Đoàn Lê Giang,  Trưởng khoa Văn học và Ngôn ngữ trường ĐH KHXH-NV (ĐH Quốc gia TP.HCM) đồng quan điểm.

Số phận KHXH bị “o ép” từ nhiều phía

Có thể nói, bên cạnh cách dạy trong nhà trường khiến học sinh “ngại học” thì suy nghĩ thực dụng của phần lớn phụ huynh cũng khiến cho KHXH rớt giá thảm hại. Tuy nhiên, tâm lý thực dụng này rõ ràng có lý khi ai cũng muốn ra trường sẽ tìm được việc làm ngay và kiếm được nhiều tiền.

Nhóm ngành KHXH trong những năm qua không cho thấy triển vọng nghề nghiệp tốt. Ngược lại, kinh tế ngày càng thể hiện được sức mạnh đổi đời cho người học nên thật khó để trách học sinh và gia đình theo đuổi lĩnh vực này.

Nguyên nhân chính của vấn đề này chính là chính sách của Nhà nước từ Trung ương đến địa phương đều coi nhẹ vai trò của KHXH, trong khi đó, thực tế ở nhiều nước phương Tây cho thấy, nhóm ngành có vai trò rất quan trọng trong việc hoạch định chính sách, phát triển xã hội và giáo dục.

Trên báo Dân trí, Th.s Đỗ Văn Bình, khoa Xã hội học, trường đại học Văn Hiến, dẫn chứng: kinh phí cấp cho các đề tài KHXH & NV của Đại học Quốc gia TP.HCM hàng năm chỉ chiếm khoản 1/6 tổng kinh phí nghiên cứu khoa học; đối với những đề tài trọng điểm cấp bộ còn ít hơn, chỉ chiếm 1/7 tổng kinh phí.

Hiện nay trong một bộ, sở Khoa học và công nghệ, công việc KHXH-NV nhiều lắm cũng chỉ chiếm một vụ, một phòng; trong khi có vô số vụ, vô số phòng lo các vấn đề khoa học tự nhiên và công nghệ. Ở tất cả các cấp từ trung ương đến địa phương, chi phí nghiên cứu một đề tài khoa học tự nhiên và công nghệ lên tới hàng tỉ đồng là chuyện bình thường, trong khi chi phí cho các đề tài KHXH-NV thì cực kỳ ít ỏi.

TS Trần Chút, phó hiệu trưởng trường đại học Văn Hiến thẳng thắn chỉ ra: Công tác tư vấn và phản biện xã hội, bảo vệ vai trò quan trọng của KHXH đối với sự phát triển của đất nước được thực hiện chủ động và bài bản thì chắc chắn đã không xảy ra sự thiên lệch trong việc hoạch định và điều hành chính sách, hạn chế được tính thực dụng về chọn ngành, chọn nghề.

“Hơn nữa, KHXH còn rất “khổ” khi được sử dụng như một lĩnh vực của công tác tuyên huấn làm biến dạng giá trị khoa học đích thực và tính hấp dẫn của nhóm ngành này”- ông Trần Chút nhận xét.

Làm sao để vai trò của KHXH được đánh giá đúng?


Trên Dân trí, tại hội thảo “Làm gì để người học tìm đến với nhóm ngành KHXH?” tổ chức tại ĐH Văn Hiến- T.P Hồ Chí Minh cuối tháng 3, PGS.TS Nguyễn Thiện Tống, trường đại học Cửu Long đặt vấn đề, nhóm ngành xã hội vắng thí sinh chưa hẳn do nhu cầu xã hội. Theo ông, việc đào tạo ồ ạt của nhóm ngành kinh tế đã báo trước tình trạng cử nhân kinh tế ra trường thất nghiệp là hiển nhiên.

Đánh giá đúng vị trí và vai trò của KHXH, nhiều ý kiến của các chuyên gia đều thống nhất rằng: việc đào tạo kiến thức về khoa học xã hội phải là cái nền cơ bản cho sinh viên mọi khối ngành trước khi đi vào chuyên ngành.

Muốn vậy, các ngành KHXH phải tự đổi mới, đáp ứng nhu cầu học phong phú của XH như học để biết, đôi khi chỉ cần vài tín chỉ, một số khác trong KHTN có nhu cầu học các ngành KHXH và nhân văn… Đặc biệt, đổi mới về nội dung, hài hòa giữa tính hàn lâm và tính ứng dụng là quan trọng nhất.

Bên cạnh đó, rất cần chú ý đến đầu tư cho KHXH. Trên Dân trí, Th.s Đỗ Văn Bình đề xuất: “Viện Khoa học xã hội Việt Nam cần phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ xây dựng đề án phát triển các ngành khoa học xã hội trong 10-20 năm tới để trình Chính phủ phê duyệt. Đề án cần quan tâm đến việc nâng cao năng lực giảng dạy cho giáo viên, cải tiến giáo trình, quy chế nghiên cứu, thực hành”.

Do đó, điều quan trọng cần làm là minh định lại tinh thần của KHXH & NV bao gồm tinh thần khoa học, tinh thần phản biện và tinh thần tự do trong nghiên cứu khoa học, bên cạnh tinh thần hàn lâm và tinh thần thực tiễn, phục vụ cộng đồng.

  • Nguyễn Hường (tổng hợp)