- Chiều 30 tết, trong khi tôi xếp hàng chờ được chia 2 lạng thịt nhờ tem phiếu của bác tôi thì bà ngoại sai các con rể làm thịt con lợn lang đen nuôi từ giữa năm. Tết của ngoại ngày đó xen lẫn cả nghèo khó và sung sướng, là một trong những ký ức tuổi thơ đẹp nhất của tôi.


Quầy bán hàng tết thời bao cấp. (Ảnh quechoa.info).

Sau này lớn lên, tôi chưa thấy chiều 30 tết nào rộn ràng niềm vui như những chiều 30 tết ở nhà bà ngoại. Mẹ tôi sinh liền ba đứa, lại phải làm ca đêm, trong khi bố tôi sau khi đi du học về phải đi nghĩa vụ quân sự, nên bố mẹ phải gửi ba chị em về bà ngoại.

Bác ruột tôi không lấy chồng, ở chung với bà ngoại, làm nghề giáo viên, cho nên tôi mới có dịp hiểu thế nào là tem phiếu của thời bao cấp. Hai hình ảnh ấn tượng nhất về thời bao cấp của tôi lúc 7 tuổi là đứng chờ đem về 2 lạng thịt phân phối ngày tết và vài chục mét chỉ khâu, hình như có một ít vải may đủ một chiếc quần hay một chiếc áo nữa.

Ông ngoại tôi làm thuốc bắc nổi tiếng một vùng nên bà ngoại không cần phải làm ruộng mà vẫn có tiền tiêu. Bà tôi hầu như không tiết kiệm, bao giờ cũng mua đủ thứ ngon vật lạ trong vùng cho con cháu ăn. Tôi không thể quên được, mỗi khi thịt gà, bà chỉ xé cho bọn tôi ăn chứ không được chặt, vì chặt thì hàng xóm nghe thấy sẽ bảo là trưởng giả, chỉ làm họ thêm ghét. Trong làng có một cụ già, thỉnh thoảng lại ra đứng ngã ba đường chửi “tông ti họ hàng, hang hốc rễ tre đứa nào dám ăn trộm gà của bà”.

Trong bối cảnh ấy, mới thấy việc “ngả ra con lợn béo” vào chiều 30 tết mới thiêng liêng làm sao. Nhìn chung cả năm, cả họ đều ăn uống kham khổ, chỉ bọn trẻ con chúng tôi mới được ưu tiên hơn về thức ăn.

Tôi vẫn thấy văng vẳng bên tai tiếng lợn bị chọc tiết, tiếng mài dao, khua dao lẻng xẻng, tiếng các bác gọi người sai vặt. Bà ngoại tôi chuẩn bị sẵn đồ để cúng tối ba mươi và ra cổng ngóng cậu tôi đi tàu từ Nam ra, ngóng bố mẹ tôi từ xa về.

Trước tết nửa năm, bà sẽ thả vào chuồng một con lợn lang đen nhỏ xíu. Giống lợn này bây giờ rất hiếm, được coi là đặc sản, vì đó là lợn thuần chủng của Việt Nam, lưng võng, thịt rất thơm ngon nhưng năng suất kém nên sau này nhiều người không nuôi để bán, vì chắc chắn là lỗ vốn. Có vỗ béo cỡ nào thì lợn lang đen chỉ lớn tối đa khoảng 30 đến 35 cân.

Chỉ có một con lợn nhỏ thế thôi mà không khí thật tấp nập. Chỗ này một bác làm giò thủ, chỗ kia một bác làm giò nạc, giò mỡ, chỗ kia nữa một bác đang làm dồi lợn, món dồi có lá mần tưới tạo ra một vị rất khác lạ, không nơi nào có. Dồi lợn còn có nhiều miếng sụn lấy từ các phần khác nhau của con lợn, khi nhai rất thú vị.

Xếp hàng mua thịt ngày tết bằng tem phiếu. (Ảnh quechoa.info).

Phần sườn non của lợn sẽ được băm nhỏ làm món sườn rang muối, rất thơm ngon và quan trọng là…ăn được lâu! Món chân giò sẽ luộc, lòng lợn dành cho các bác nhắm rượu, một phần tiết lợn để nấu cháo. Món cháo lòng cuối năm thật nhiều hương vị, nhất là trong cái lạnh đêm 30.

Bà ngoại tôi có 7 người con ở gần ở xa, và tết nào cũng về đầy đủ. Cả con cháu, dâu, rể, chiều ba mươi tết tề tựu đông đủ, tính ra cũng gần hai chục người. Niềm vui như vỡ ra, tiếng thăm hỏi và trò chuyện vang khắp ba gian nhà ngói. Không ai cảm thấy lạnh nữa, chỉ thấy tình người sưởi ấm khắp không gian.

Bố tôi sẽ hạ cái ba lô xuống, trong đó là quà tết được cơ quan tặng, có đường, sữa, mỳ chính và mứt tết. Đó là những thứ quý nhất mà bố tôi mang về tặng bà ngoại. Còn chúng tôi sẽ có quà là những bộ quần áo do chính bố tôi may bằng vải phân phối, được cắt rất đơn giản và may bằng chiếc máy khâu mà mẹ tôi mang từ Liên Xô về.

Sau này lớn lên, bà ngoại tôi mất, chẳng còn cái tết nào “ngả ra con lợn béo” và họ hàng xum họp nữa. Đôi lúc nhìn buổi chiều 30 tết ở thành phố vắng hoe và nao nao buồn. Hóa ra, cái thiếu thốn của thời bao cấp cũng có giá trị của nó. Bây giờ vật chất thừa thãi cả năm, món tết không còn thiêng liêng như xưa nữa.

  • Hương Giang