Thông tư số 30 do Bộ GD - ĐT ban hành đã gây hiểu nhầm về việc bỏ quy định phải thạo một ngoại ngữ đối với các ứng cử viên chức danh giáo sư, phó giáo sư. Tuy nhiên, sau đó, Bộ GD-ĐT đã giải thích: Ứng viên xét đạt tiêu chuẩn chức danh giáo sư, phó giáo sư phải sử dụng thành thạo một ngoại ngữ phục vụ cho công tác chuyên môn và giao tiếp được bằng tiếng Anh.

Xung quanh chủ đề này, PV có cuộc trò chuyện cùng TS Lê Đông Phương, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu giáo dục đại học và nghề nghiệp, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam (Bộ GD - ĐT) về thực trạng sử dụng tiếng Anh trong giới học thuật hiện nay. 

TS Lê Đông Phương (Ảnh: Văn Chung/VietNamNet)

Không "thạo ngoại ngữ" là một bước lùi

Thưa ông, ông có nhận xét gì về quy định sử dụng ngoại ngữ của các ứng viên giáo sư, phó giáo sư hiện nay?

Trước đây, có quy định là phó giáo sư có thể sử dụng tiếng Anh trong nghiên cứu, nôm na là không nhất thiết phải nghe, nói thành thạo. Còn giáo sư thì phải trình bày được nội dung các vấn đề học thuật của mình bằng tiếng Anh, ai muốn làm giáo sư cần có một bản báo cáo tóm tắt bằng tiếng Anh về kết quả nghiên cứu của mình. Tôi cũng biết có nhiều người đăng ký xét giáo sư đã phải đi nhờ người khác dịch báo cáo này từ tiếng Việt qua tiếng Anh về những công việc chuyên môn đã thực hiện được, các vị ấy học thuộc lòng để lên trình bày cho trôi chảy. Gần đây, Bộ GD - ĐT cũng đã thúc đẩy việc đưa tiêu chuẩn ngoại ngữ vào các yêu cầu đối với chức danh giáo sư, phó giáo sư.

Nếu không yêu cầu giáo sư, phó giáo sư phải thành thạo ngoại ngữ thì sẽ là một bước lùi lớn. Theo tôi, cần phải tăng thêm yêu cầu đòi hỏi ứng viên phải có công trình công bố bằng tiếng nước ngoài, trên tạp chí khoa học, sách của các nhà xuất bản có uy tín của nước ngoài. Chứ như hiện nay, một số ứng viên cứ tìm mọi cách để có báo cáo tại hội nghị quốc tế nhưng khá mông lung: "Hội nghị quốc tế" nhưng phải là ở nước nào, tính chất học thuật đến đâu? Thậm chí, nhiều người còn không xuất hiện, mà chỉ gửi bài đăng (vì có hội nghị, hội thảo đăng tất những bài được gửi đến).

Ở các nước, người ta quy định việc thành thạo ngoại ngữ đối với ứng viên giáo sư, phó giáo sư như thế nào?


Tiếng Anh là một sự ngầm định của giới học thuật quốc tế. Khi đã là giảng viên hay làm nghiên cứu khoa học thì phải ở một ngưỡng trình độ nào đó, phải thể hiện được năng lực của mình khi làm việc với các đồng nghiệp ở nước ngoài. Ở Nhật Bản, đã là giáo sư thì phải có bài báo bằng tiếng nước ngoài, xuất bản ở một tạp chí có uy tín; phải sử dụng được ngoại ngữ đó trong giao tiếp học thuật. Còn ở Đức hoặc là một số các nước châu Âu, người ta có một sự mặc định là bên cạnh tiếng mẹ đẻ anh còn phải làm việc được bằng tiếng Anh. Tất nhiên, ở Việt Nam thì ngoài lựa chọn bằng tiếng Anh cũng có thể dùng tiếng Đức, tiếng Pháp hay tiếng Trung... nhưng mà phải sử dụng thành thạo.

Nếu không có quy định phải thành thạo ngoại ngữ, liệu có dẫn đến "lạm phát" số lượng giáo sư, phó giáo sư?

Đúng, nó lạm phát là bởi nhiều lẽ. Nếu tôi nhớ không nhầm thì đã từng có thống kê cho biết: Có khoảng 1/2 số giáo sư, phó giáo sư không làm việc trong các cơ quan học thuật. Nghĩa là ở ta vẫn còn phổ biến căn bệnh sính bằng cấp. Nhiều người sau khi học tiến sĩ xong, thấy còn thiếu thiếu thế là cố để được công nhận là phó giáo sư, rồi giáo sư. Trong nhiều cơ quan, khi sử dụng người lao động, người ta cũng ngầm định phó giáo sư là hơn tiến sĩ, giáo sư hơn phó giáo sư. Nhưng trong quy ước của quốc tế thì giáo sư, phó giáo sư nó chỉ là chức danh của công việc. Ở nhiều nước thì người ta mặc định là khi anh đi dạy đại học, anh sẽ có một cái hàm gọi là phụ tá giáo sư, rồi phó giáo sư, giáo sư. Vì vậy, ở nước ngoài những người trẻ tốt nghiệp tiến sĩ một vài năm cũng có thể trở thành phó giáo sư, vì đấy là chức danh. Ở ta thì bị hiểu sai, và mọi người cứ nghĩ đó là thể hiện đẳng cấp khoa học: Cứ là anh được công nhận là giáo sư là phải hơn anh chỉ có bằng tiến sĩ.

Tuy vậy, về mặt số lượng, có lẽ chúng ta vẫn chưa đủ giáo sư, phó giáo sư. Nếu nói đã đủ (những người có cống hiến nhiều cho xã hội) thì chắc là chưa đủ. Nhưng mà có thừa hay không thì cũng có thể nói rất thừa vì những người mang danh là giáo sư, phó giáo sư nhưng không giảng dạy, nghiên cứu. Điều này chúng ta cũng nên đặt câu hỏi ngược trở lại: Tại sao chúng ta cứ nhất thiết phải phong giáo sư, phó giáo sư cho những người không làm công tác dạy học hay là nghiên cứu?

Nên trả lại cho trường

Vì sao giáo sư, phó giáo sư ở ta thì nhiều nhưng các công trình được thế giới biết đến thì hầu như chưa có? Phải chăng, yếu ngoại ngữ cũng là một nguyên nhân?

Ở đây có hai vấn đề là ngoại ngữ và động lực công bố. Khi yêu cầu về công bố quốc tế không được đặt ra nghiêm túc thì khó bắt được họ thực hiện. Mặt khác, yêu cầu học thuật của các nhà xuất bản, các tạp chí quốc tế có uy tín thường rất cao nên người Việt Nam ít có công bố quốc tế là vậy. Viết (bằng ngoại ngữ) đã vất vả, mà viết đúng định dạng, khuôn mẫu của họ lại càng khó nên học giả Việt Nam thường không qua nổi cửa phản biện. Ngay một chuyện tưởng như là nhỏ là trích dẫn tài liệu tham khảo đã là cả một vấn đề lớn. Mỗi nhà xuất bản, mỗi tạp chí có quy định riêng về trích dẫn tài liệu, mà các học giả Việt Nam lại ít khi trích dẫn đúng cách nên "chịu thua", không công bố nữa. Ngoài ra, lệ phí để công bố cũng là điều các học giả Việt Nam không kham nổi khi kinh phí nghiên cứu không có mục chi cho việc đó.

Ở các nước, việc bổ nhiệm chức danh giáo sư là việc của các trường, vậy ở ta có nên để các trường làm việc đó?

Đã đến lúc phải để cho các trường thực hiện việc phong chức danh. Tuy nhiên, Nhà nước có thể kiểm soát được bằng các tiêu chuẩn và hạn ngạch đối với các trường, các ngành học. Có quốc gia đưa tổng hạn ngạch chức danh giáo sư vào luật giáo dục đại học của họ, các trường cứ thế mà thực hiện. Để tránh "lạm phát" chức danh cần có quy chế xác định chặt chẽ khi nào trường được bổ nhiệm chức danh giáo sư và chức danh đó có ý nghĩa gì với nhà trường, với ngành học đó. Và các chức danh giáo sư cần được bổ nhiệm theo cơ chế cạnh tranh công khai cho tất cả mọi người, bất kể trong hay ngoài nhà trường, miễn là đáp ứng được các yêu cầu về học thuật và hành chính. Yêu cầu của chức danh cũng phải đưa ra các yêu cầu về phát triển khoa học, tránh hiện tượng được chức danh rồi thì không làm gì nữa.

Theo ông, ở Việt Nam, các trường có đủ năng lực không, nếu được giao việc này?

Cái này tùy theo quyền hạn được giao. Nếu giao quyền quá thoáng thì e các trường không đủ sức, ngược lại, quá hạn chế thì chẳng còn gì để thực thi. Vấn đề là phải nắm bắt tình hình và có các điều chỉnh phù hợp để phát huy năng lực của các trường mà không làm hỏng ý nghĩa của chức danh. Như đã nói, vấn đề còn là ở chỗ ta hiểu chữ "giáo sư" như thế nào. Nếu theo thông lệ quốc tế thì vấn đề bổ nhiệm chức danh giáo sư không phải là vấn đề quá lớn và khi rời khỏi chức vụ (giảng dạy) đó, người ta cũng sẽ vui vẻ từ bỏ chức danh giáo sư của mình.

Xin cảm ơn ông!

Theo Lê Ngọc Sơn/Sinh viên Việt Nam

TS Lê Đông Phương là người có gần 30 năm nghiên cứu về giáo dục Việt Nam và trải nghiệm qua nhiều nền giáo dục: Tốt nghiệp Cử nhân Đức - Việt về chuyên ngành Chế tạo Vũ khí; tốt nghiệp Thạc sĩ tại Mỹ (theo học bổng Fulbright khóa đầu tiên) về Quy hoạch phát triển; và bảo vệ luận án Tiến sĩ ở Nhật Bản về Giáo dục học.

Ở những vấn đề tranh luận cần sự "ra tay" của các học giả, như chủ quyền biển Đông chẳng hạn, thì để cho thế giới hiểu được sự chính danh và lẽ phải của ta là một việc cực kỳ quan trọng. Ông thấy ngoại ngữ là rào cản như thế nào đối với việc đó?

Những người làm nghiên cứu về chủ quyền của Việt Nam không nhiều, và số có thể thể hiện kết quả nghiên cứu của mình cho thế giới học thuật bên ngoài Việt Nam cũng ít, phần nào đúng là vì rào cản ngôn ngữ.

Chúng ta có nhiều người nghiên cứu Sử nhưng các sách này hầu hết viết bằng chữ Hán hay chữ Nôm, chuyển ngữ cho các minh chứng và kết quả nghiên cứu sang ví dụ như tiếng Anh là điều rất khó, không phải đơn thuần đưa dịch Việt - Anh mà đòi hỏi phải có kiến thức ngôn ngữ Anh - Hán - Việt và lịch sử/địa lý bằng tổ hợp 3 ngôn ngữ nói trên. Vì vậy, ta có rất ít công bố học thuật về chủ quyền (cả trên bộ cũng như trên biển) ra thế giới.

Trong khi Trung Quốc đã "cài cấy" các ngụ ý về chủ quyền của họ tại các khu vực tranh chấp với các nước láng giềng vào các công trình công bố quốc tế từ khá lâu (tuy họ biết thừa là mạo nhận nhưng cứ công bố).

Cho nên, khi các nhà nghiên cứu học thuật nước ngoài tìm kiếm thông tin thì họ sẽ tìm được thông tin của Trung Quốc trước, còn thông tin của Việt Nam hầu như không thấy. Thiếu năng lực giao tiếp bằng ngoại ngữ cũng làm cho các học giả Việt Nam có ít cơ hội tiếp xúc với các tư liệu lưu trữ ở nước ngoài hơn, ví dụ như các tư liệu trước đây của Pháp nghiên cứu về Đông Dương hiện nằm trong các thư viện bên Pháp chẳng hạn.