- GS Trần Đình Sử nhìn nhận chủ trương "cởi trói" đã chấm dứt một nền văn học "đồng phục". Nhà phê bình văn học Chu Văn Sơn nhận diện với sự xuất hiện của thế hệ nhà văn sau 1975, mẫu nhà văn chiến sĩ đã nhường chỗ hoàn toàn cho mẫu nhà văn kẻ sĩ hiện đại.

Hội thảo quốc gia "Thế hệ nhà văn sau 1975" do Trường ĐH Văn hóa Hà Nội tổ chức ngày 28/4 đã phác thảo những diện mạo và thành tựu của những người sáng tác ở một chặng đường văn học quan trọng nửa sau thế kỷ 20.

{keywords}
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều (bên phải) là một trong những tác giả được đánh giá có cách tân về thi pháp.
Theo PGS Nguyễn Văn Cương, Hiệu trưởng nhà trường, lực lượng chính, đông đảo nhất và trực tiếp kiến tạo những giá trị mới, đặc biệt là hệ mỹ học mới chủ yếu thuộc về những người xuất hiện và khẳng định tên tuổi sau 1975. Nếu xét về tên tuổi, phần lớn họ thuộc về thế hệ sinh vào những năm 1950, 1960. Nếu xét thời điểm đăng đàn, họ có mặt ngay từ lúc tinh thần Đổi mới đang khởi dựng cho đến khi thành cao trào.

Trong tham luận dẫn nhập với nhiều kiến giải riêng của mình, nhà phê bình văn học Chu Văn Sơn đã cố gắng khái lược những nét cơ bản nhất về thế hệ này. Theo ông, phải sau quãng giao thời 1975 - 1985 mà mỹ học thời chiến còn theo bám, đến năm 1986 với sự xuất hiện của Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh, Dư Thị Hoàn, Dương Kiều Minh, Nguyễn Quang Thiều... thì một thế hệ cầm bút mới chính thức khai hỏa. Mỹ học thời chiền lùi hẳn vào hậu trường nhường chỗ cho mỹ học hậu chiến. Đó là mỹ học của cái ngày thường muôn thủa, phát hiện cái bất thường trong cái bình thường là tư duy thẩm mỹ bao trùm. .

{keywords}
TS Chu Văn Sơn

Sử dụng các ví von một cách mạnh mẽ, TS Chu Văn Sơn cho rằng đã có sự "đảo chính về thi pháp" mà đi tiên phong là văn xuôi. Tựu trung lại, với sự xuất hiện của thế hệ nhà văn sau 1975, mẫu nhà văn chiến sĩ đã nhường chỗ cho mẫu nhà văn kẻ sĩ hiện đại.

Xem xét ở góc độ "tiếp nối và chuyển động", TS Đỗ Hải Ninh phân chia 3 giai đoạn. Giai đoạn 1975 - 1985 là thế hệ mang ý thức phản tỉnh; giai đoạn 1986 - 1991 là thế hệ mang ý thức tự vấn. Còn từ đầu thập niên 1990 đến nay là thế hệ hội nhập với tinh thần phản vấn.

PGS Đỗ Lai Thúy tiếp cận chủ đề hội thảo từ lý thuyết "tiếp cận hệ hình" - một học thuyết về sự phát triển. Theo quan sát của ông, văn học từ 1986 - 1992 là đổi mới từ trên xuống, chủ yếu từ đối mới chính trị. Tiếp theo đó, những đổi mới mang tính chất tự giác và cá nhân tạo đà cho đổi mới từ dưới lên. Thời kỳ này mày mắn gặp được sự phổ biến của mạng internet vào VN.

Kết thúc tham luận, PGS Đỗ Lai Thúy nhìn nhận "Tuy sáng tác của thế hệ nhà văn sau 1975 đã nằm trong hệ hình văn học hiện đại, nhưng chưa chiếm giữ được vai trò chủ đạo. Điều này không chỉ ít nhiều hạn chế năng lực của chính bản thân nó, mà còn ảnh hưởng đến tiến trình hội nhập thế giới của văn học VN.

{keywords}
Bộ trưởng Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch cùng các đại biểu dâng hương trước giờ hội thảo


GS Trần Đình Sử nhìn nhận chủ trương "cởi trói" thực sự tạo bước ngoặt cho văn hóa và văn học VN, rõ nét nhất là đã chấm dứt một nền văn học "đồng phục". Các nhà văn không cùng kể chung một câu chuyện của thời đại mà mỗi người kể câu chuyện của mình về thời đại.


{keywords}
Hội thảo nhận được hơn 80 tham luận. Các đại biểu gặp gỡ bên lề

GS Trần Đình Sử cũng so sánh văn học Đổi mới của Việt Nam không có sự phát triển luân phiên như văn học thời kỳ mới ở Trung Quốc (đi từ văn học vết thương, văn học phản tư, văn học tiền phong, văn học tầm căn, văn học viết cá nhân, văn học hương thổ viết về nông thôn...). "Văn học VN hình như không có lớp lang như thế, mà ngay từ đầu đã có đủ các xu hướng...".

Nhìn tổng quát, GS cho rằng thế hệ nhà văn sau 1975 "Họ xuất hiện để tiếp thu, tìm tòi những nguyên tắc nghệ thuật hiện đại, đi tìm những mỹ học mới và khác, làm phong phú cho văn học dân tộc".

  • Hạ Anh
  • Ảnh: Văn Chung