Phát triển ngành công
nghiệp lọc - hóa dầu là chủ trương đã có từ lâu của Nhà nước ta.Việc đầu
tư xây dựng NMLD cho phép chúng ta chế biến dầu thô trong nước.
Phát
triển ngành công nghiệp lọc - hóa dầu là chủ trương đã có từ lâu của
Nhà nước ta.Việc đầu tư xây dựng NMLD cho phép chúng ta chế biến dầu
thô trong nước, đảm bảo từng bước về an ninh năng lượng, giảm bớt sự
phụ thuộc vào nguồn cung cấp xăng dầu từ nước ngoài, góp phần vào sự
nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước.
Ngay từ cuối những
năm 1970, sau khi có những hợp tác quan trọng với Liên Xô về lĩnh vực
tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí tại thềm lục địa phía Nam, Chính
phủ đã chủ trương hình thành một chiến lược xây dựng ngành công nghiệp
lọc - hóa dầu để phục vụ công cuộc phát triển đất nước. Dự án Liên hợp
Lọc hóa dầu đầu tiên được hình thành năm 1977 hợp tác với Công ty
Beicip của Pháp nghiên cứu thực hiện trên cơ sở nguồn tài trợ từ Quỹ
UNICO, dự kiến đặt tại Nghi Sơn - Thanh Hóa với công suất 6 triệu
tấn/năm, sản xuất nhiên liệu và một số loại sản phẩm hóa dầu. Năm 1979,
dự án đã dừng lại vì gặp khó khăn về nguồn vốn.
Nhà máy lọc dầu Dung Quất đã đi vào hoạt động được hơn 2 năm.
Đầu những năm 1980,
theo Hiệp định hợp tác Kinh tế - Khoa học kỹ thuật giữa hai nước Việt
Nam và Liên Xô, hai bên đã thống nhất địa điểm xây dựng khu Liên hợp
lọc - hóa dầu tại thành Tuy Hạ, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Khu
Liên hợp lọc - hóa dầu dự kiến được đầu tư xây dựng trong 2 giai đoạn,
giai đoạn 1 sẽ xây dựng một nhà máy lọc dầu với một dây chuyền chế biến
dầu thô công suất 3 triệu tấn/năm. Giai đoạn 2 dự kiến đầu tư thêm một
dây chuyền chế biến dầu thô để nâng công suất lọc dầu lên 6 triệu
tấn/năm và hình thành một khu hóa dầu sản xuất chất dẻo, sợi tổng hợp
và một dây chuyển sản xuất phân đạm (Urê). Tổng vốn đầu tư cho cả hai
giai đoạn vào khoảng 3 tỷ Rúp chuyển nhượng. Năm 1986, Viện
Nghiên cứu thiết kế lọc hóa dầu Liên Xô đã hoàn thành việc lập Luận
chứng nghiên cứu khả thi. Đầu những năm 1990, việc giải phóng một phần
của 3.000 ha mặt bằng và khảo sát địa chất sơ bộ, chuẩn bị các điều
kiện phụ trợ để xây dựng khu Liên hợp đã được phía Việt Nam tiến hành.
Lúc này, phía Liên Xô cũng đã thực hiện xong thiết kế cơ sở và chuẩn bị
các điều kiện đầu tư cho dự án. Tuy nhiên do tình hình chính trị và thể
chế của Liên Xô thay đổi nên dự án khu Liên hợp lọc - hóa dầu tại thành
Tuy Hạ không tiếp tục triển khai được theo hướng ban đầu.
Năm 1992, Chính phủ
chủ trương mời một số đối tác nước ngoài liên doanh đầu tư xây dựng Nhà
máy lọc dầu, trong đó có Liên doanh Petrovietnam với Tập đoàn Total
(Pháp) cùng CPC (Chinese Petroleum Corp) và CIDC (Chinese Investment
Development Corp) là hai công ty của Đài Loan. Trong quá trình chuẩn bị
dự án, đã có nhiều ý kiến khác nhau của các bên về địa điểm đặt nhà
máy, cụ thể Total đề xuất địa điểm xây dựng NMLD tại Long Sơn, tỉnh Bà
Rịa - Vũng Tàu.
Tháng 02/1994, Thủ
tướng Chính phủ đã giao cho Tổng công ty Dầu khí Việt Nam ( nay là Tập
đoàn dầu khí quốc gia Việt Nam) làm việc với các đối tác nước ngoài gồm
Total (Pháp), CPC và CIDC (Đài Loan) lập Báo cáo nghiên cứu khả thi chi
tiết Nhà máy lọc dầu số 1 với vị trí dự kiến đặt tại Đầm Môn, vịnh Văn
Phong, tỉnh Khánh Hòa.
Trong quá trình
nghiên cứu tiếp theo, do vẫn có một số quan điểm khác nhau về địa điểm
đặt nhà máy nên Thủ tướng Chính phủ đã giao cho Bộ Xây dựng chủ trì
phối hợp với các bộ ngành liên quan trong đó có Tổng Công ty dầu khí
Việt Nam tiếp tục nghiên cứu và báo cáo đầy đủ về các yếu tố địa hình
địa chất, tính toán toàn diện các mặt lợi ích kinh tế xã hội, an ninh
quốc phòng của các địa điểm dự kiến xây dựng Nhà máy lọc dầu số 1 tại:
Nghi Sơn (Thanh Hoá); Hòn La (Quảng Bình);Dung Quất (Quảng Ngãi);Văn
Phong (Khánh Hoà); Long Sơn (Vũng Tàu). Ngày 19/9/1994, Thủ
tướng Võ Văn Kiệt đã trực tiếp thị sát khu vực vịnh Dung Quất - Quảng
Ngãi và chỉ thị cho các bộ, ngành liên quan phối hợp với UBND tỉnh
Quảng Ngãi tiếp tục khảo sát và lập quy hoạch Khu Công nghiệp tập
trung, NMLD số 1 và Cảng nước sâu Dung Quất (nay là Khu Kinh tế Dung
Quất). Sau khi xem xét những kết quả khảo sát khoa học thu được và quy
hoạch sơ bộ, ngày 09/11/1994, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định về
địa điểm xây dựng Nhà máy lọc dầu số 1 và quy hoạch Khu kinh tế trọng
điểm miền Trung, trong đó chính thức chọn Dung Quất - Quảng Ngãi làm
địa điểm xây dựng Nhà máy lọc dầu số 1. Việc lập Luận chứng
nghiên cứu khả thi chi tiết của dự án được Tổ hợp gồm PetroVietnam,
Total, CPC và CIDC tiếp tục thực hiện. Tuy nhiên đến tháng 9/1995,
Total xin rút khỏi dự án do không đạt được thỏa thuận về địa điểm đặt
nhà máy. Để tiếp tục triển khai dự án, theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính
phủ, Tổng công ty dầu khí Việt Nam đã khẩn trương soạn thảo và trình
Chính phủ phê duyệt hướng dẫn đầu bài Nhà máy lọc dầu số 1 và mời các
đối tác khác thay thế Total tham gia dự án. Ngày 15/02/1996,
Tổng công ty Dầu khí Việt Nam và các đối tác nước ngoài là LG (Hàn
Quốc), Stone & Webster (Mỹ), Petronas (Malaysia), Conoco (Mỹ), CPC
và CIDC (Đài Loan) đã ký tắt thỏa thuận lập Luận chứng khả thi chi tiết
Nhà máy lọc dầu số 1. Ngày 05/03/1996, lễ ký chính thức thỏa thuận lập
Báo cáo DFS để góp vốn đầu tư Nhà máy lọc dầu số 1 được tiến hành. Tỷ
lệ góp vốn của các bên tham gia dự án như sau: Tổng công ty Dầu khí
Việt Nam 30%; LG 27%, Stone & Webster 3%, Petronas 15%, Conoco 15%;
CPC 9% và CIDC 1%.
Sau khi ký thỏa
thuận lập Luận chứng nghiên cứu khả thi chi tiết dự án, tổ hợp bao gồm
PetroVietnam và các bên nước ngoài đã khẩn trương triển khai công việc.
Trong thời gian từ 15/02/1996 đến 15/8/1996, Luận chứng nghiên cứu khả
thi chi tiết đã được thực hiện với sự tham gia của các bên và các Tư
vấn kỹ thuật,, Tư vấn Cảng, Tư vấn Tài chính và Tư vấn Luật. Theo hướng dẫn đầu
bài được Chính phủ phê duyệt, Nhà máy lọc dầu số 1 sẽ được xây dựng tại
Dung Quất, thuộc địa bàn 2 xã Bình Trị và Bình Thuận, huyện Bình Sơn,
tỉnh Quảng Ngãi. Với hình thức đầu tư liên doanh, nhà máy sẽ chế biến
một hỗn hợp 6,5 triệu tấn dầu ngọt và dầu chua/năm; trong đó lượng dầu
ngọt Việt Nam là chủ yếu, để cho ra sản phẩm chính là nhiên liệu phục
vụ giao thông và công nghiệp.
Ngày 6/1/2011, nhà máy lọc dầu Dung Quất chính thức khánh thành
Luận chứng nghiên
cứu khả thi đã đưa ra 50 phương án đầu tư để xem xét, với chỉ số thu
hồi nội tại IRR (Internal Rate of Return) của các phương án từ 8 - 11%
và tổng vốn đầu tư khoảng 1,7 đến 1,8 tỷ USD. Luận chứng nghiên cứu chi
tiết đã được các bên hoàn thành đúng tiến độ và trình Chính phủ Việt
Nam phê duyệt vào tháng 11/1996.
Tuy nhiên, kết quả
của Luận chứng nghiên cứu khả thi chi tiết cho thấy dự án - với các
thông số theo hướng dẫn của đầu bài - đòi hỏi vốn đầu tư cao, không
thỏa mãn hiệu quả kinh tế và tiềm ẩn khó khăn trong việc thu xếp tài
chính.
Phía nước ngoài đã
đề nghị Chính phủ Việt Nam hỗ trợ bằng cách cho phép dự án được hưởng
một số ưu tiên, ưu đãi không nằm trong quy định của hướng dẫn đầu bài
như các ưu đãi đặc biệt về thuế, vấn đề bù lỗ cho dự án và cho phép
phía nước ngoài tham gia thị trường phân phối sản phẩm. Đề nghị này
không được Chính phủ Việt Nam phê chuẩn, vì vậy cuối năm 1996 phía đối
tác nước ngoài xin rút khỏi dự án.
Sau khi các đối tác
nước ngoài rút khỏi dự án, theo chỉ đạo của Chính phủ, Tổng công ty dầu
khí Việt Nam tiếp tục lập Luận chứng nghiên cứu khả thi chi tiết Dự án
NMLD số 1 theo phương án Việt Nam tự đầu tư. Luận chứng nghiên cứu khả
thi được thực hiện trong thời gian từ tháng 01/1997 đến hết tháng
3/1997 với sự tham gia của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Giao thông - Vận
tải, Bộ Xây dựng, Bộ Tài chính, Bộ Khoa học - Công Nghệ & Môi
trường, Bộ Quốc phòng, Bộ Công nghiệp, Văn phòng Chính phủ và UBND tỉnh
Quảng Ngãi. Được sự đồng ý của
Thủ tướng Chính phủ, để đảm bảo khách quan và độ tin cậy của Luận chứng
nghiên cứu khả thi, Tổng công ty dầu khí Việt Nam đã thuê Công ty
Foster Wheeler Energy Limited của Anh và UOP (Universal Oil Products)
của Hoa Kỳ làm tư vấn trong quá trình xây dựng Luận chứng. Ngày 10/7/1997 Thủ
tướng Chính phủ đã ra Quyết định 514/QĐ-TTg phê duyệt dự án Nhà máy lọc
dầu số 1 - Dung Quất theo hình thức Việt Nam tự đầu tư với công suất
chế biến 6,5 triệu tấn dầu thô/năm, tổng vốn đầu tư 1,5 tỷ USD, bao gồm
cả chi phí tài chính. Tổng Công ty dầu khí Việt Nam được Chính phủ giao
làm Chủ đầu tư của dự án. Ngay sau khi có
Quyết định 514/QĐ-TTg, Tổng công ty dầu khí Việt Nam đã thành lập Ban
QLDA NMLD số 1 để thay mặt Chủ đầu tư triển khai dự án. Một số công
việc đã được Ban QLDA NMLD số 1 khẩn trương triển khai như thuê tư vấn
khảo sát địa hình, địa chất mặt bằng xây dựng nhà máy; lập hồ sơ mời
thầu lựa chọn nhà bản quyền công nghệ; tổ chức đấu thầu lựa chọn tư vấn
quản lý dự án; thực hiện các công trình xây dựng cơ bản như bến cảng số
1, đường giao thông, chuẩn bị mặt bằng v.v. Ngày 08/01/1998, Lễ
động thổ xây dựng Nhà máy lọc dầu số 1 đã được tiến hành tại xã Bình
Trị, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi. Nhà máy lọc dầu số 1 là dự án
trọng điểm quốc gia, lần đầu tiên thực hiện tại Việt Nam, có yêu cầu về
kỹ thuật công nghệ rất hiện đại và phức tạp, vốn đầu tư lớn, vì vậy
trong quá trình triển khai dự án, Chính phủ vẫn chủ trương chỉ đạo Tổng
Công ty dầu khí Việt Nam tiếp tục tìm kiếm sự hợp tác đầu tư của nước
ngoài. Năm 1998, trong lúc
PetroVietnam đang triển khai dự án thì cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực
Châu Á diễn ra nhanh trên diện rộng với những ảnh hưởng rất nghiêm
trọng đến nền kinh tế của một số nước trong khu vực. Việt Nam tuy không
bị ảnh hưởng nhiều song khả năng huy động vốn để thực hiện dự án xây
dựng NMLD số 1 dự báo sẽ gặp khó khăn. Trước tình hình đó, Chính phủ đã
quyết định chọn đối tác nước ngoài để đầu tư thực hiện dự án theo hình
thức liên doanh.
Ngày 25/8/1998,
Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Liên bang Nga đã ký Hiệp định Liên
Chính phủ về việc xây dựng, vận hành Nhà máy lọc dầu số 1 tại Dung
Quất. Theo đó, hai Chính phủ thống nhất giao cho Tổng công ty dầu khí
Việt Nam (Petrovietnam) và Liên đoàn kinh tế hải ngoại Nhà nước Liên
bang Nga (Zarubezhneft) cùng làm Chủ đầu tư của dự án.
Ngày 19/11/1998, hai
phía đã thỏa thuận thành lập Liên doanh xây dựng và vận hành NMLD để
trực tiếp thực hiện công tác quản lý xây dựng và vận hành Nhà máy lọc
dầu Dung Quất. Thời gian hoạt động của Liên doanh dự kiến là 25 năm.
Ngày 28/12/1998,
Công ty Liên doanh Nhà máy lọc dầu Việt - Nga (Vietross) chính thức
được thành lập theo Giấy phép đầu tư số 2097/GP-KHĐT của Bộ Kế hoạch và
Đầu tư nước CHXHCN Việt Nam.
Theo Quyết định
560/CP-DK ngày 21/6/2001 của Chính phủ, tổng mức đầu tư cho dự án là
1,297 tỷ USD không bao gồm phí tài chính. Trong đó vốn pháp định là 800
triệu USD, chưa tính chi phí lãi vay trong thời gian xây dựng và một số
khoản chi phí của chủ đầu tư, chi phí bảo hiểm, chi phí xây dựng cảng,
chi phí thuê đất và một số hạng mục chưa đầu tư.
Tỷ lệ góp vốn của
hai phía Việt Nam và Liên bang Nga là 50/50. Việc liên doanh với Nga đã
giải quyết được hai vấn đề lớn đó là kêu gọi được nguồn vốn đầu tư và
huy động được các chuyên gia có kinh nghiệm để thực hiện dự án.
Trong giai đoạn Liên
doanh từ 1999 - 2003, dự án NMLD Dung Quất được chia làm 8 gói thầu,
trong đó có 7 gói thầu EPC riêng biệt (thiết kế, mua sắm, xây lắp) và 1
gói thầu san lấp mặt bằng nhà máy, bao gồm như sau: Gói thầu EPC số 1
gồm các phân xưởng công nghệ, năng lượng phụ trợ và các hạng mục trong
hàng rào nhà máy; Gói thầu EPC số 2 gồm khu bể chứa dầu thô; Gói thầu
EPC số 3 gồm hệ thống ống dẫn sản phẩm, khu bể chứa sản phẩm, hệ thống
xuất sản phẩm bằng đường biển và đường bộ; Gói thầu EPC số 4 gồm hệ
thống nhập dầu thô, phao rót dầu một điểm neo (SPM) và hệ thống ống
ngầm dẫn dầu thô đến khu bể chứa dầu thô; Gói thầu EPC số 5A là đê chắn
sóng; Gói thầu EPC số 5B là cảng xuất sản phẩm; Gói thầu số 6, san lấp
mặt bằng nhà máy; Gói thầu EPC số 7, xây dựng khu nhà hành chính, điều
hành. Công ty Liên doanh
Vietross đã tiến hành đấu thầu, đàm phán và ký kết và triển khai được
7/8 gói thầu, trừ gói thầu EPC 1 - Gói thầu quan trọng nhất của dự án.
Liên doanh cũng đã thu xếp đủ vốn cho dự án từ nguồn tín dụng của hai
phía, đồng thời hoàn thành được một số hạng mục xây dựng cơ bản, ổn
định cơ sở vật chất, phương tiện và các điều kiện làm việc của CBCNV;
thiết lập cơ cấu tổ chức, bộ máy nhân sự, điều hành; ban hành các nội
quy, quy trình và quy chế hoạt động v.v.
Trong quá trình Liên
doanh Vietross đàm phán hợp đồng EPC 1 với Tổ hợp nhà thầu Technip
(Pháp), JGC (Nhật Bản), Tecnicas Reunidas (Tây Ban Nha), có những vấn
đề phức tạp nảy sinh khiến cho tiến độ công việc kéo dài. Hai bên trong
Liên doanh không đạt được sự đồng thuận đối với một số vấn đề quan
trọng như việc thuê tư vấn quản lý dự án, quyết định sử dụng các nhà
thầu phụ, các nhà cung cấp thiết bị, phương án phân phối sản phẩm và
một số giải pháp hoàn thiện cấu hình công nghệ, nâng cao chất lượng và
chủng loại sản phẩm của nhà máy v.v. Do vậy hai bên đã đề nghị Chính
phủ hai nước quyết định chấm dứt Liên doanh. Phía Nga chấp thuận phương
án rút khỏi dự án để chuyển giao lại toàn bộ quyền lợi và nghĩa vụ của
mình trong Liên doanh Vietross sang phía Việt Nam.
Sau khi phía Nga rút
khỏi Liên doanh Vietross, dự án xây dựng NMLD Dung Quất trở lại với
phương án tự đầu tư. Chính phủ đã giao cho Tổng công ty dầu khí Việt
Nam tiếp tục triển khai thực hiện dự án Nhà máy lọc dầu Dung Quất. Ngày
12 tháng 02 năm 2003, Tổng công ty dầu khí Việt Nam đã thành lập Ban
QLDA NMLD Dung Quất để triển khai dự án xây dựng NMLD theo phương án
Việt Nam tự đầu tư.
Sau khi trở lại hình
thức tự đầu tư, Ban QLDA NMLD Dung Quất đã tập trung thực hiện những
nhiệm vụ chủ yếu như giải quyết các vấn đề pháp lý của các hợp đồng sau
khi chấm dứt Liên doanh, kiện toàn bộ máy tổ chức và ổn định tư tưởng
của cán bộ công nhân viên, tiếp tục đàm phán hợp đồng EPC 1; tập trung
giải quyết những phát sinh, vướng mắc về kỹ thuật, công nghệ và tài
chính của các gói thầu EPC 5A, EPC 5B, EPC 7; lập kế hoạch đào tạo tổng
thể và chuẩn bị sản xuất v.v.
Để đảm bảo công tác
quản lý, giám sát dự án trong điều kiện ta chưa có kinh nghiệm về xây
dựng NMLD, Chính phủ cho phép PetroVietnam ký hợp đồng tư vấn quản lý,
giám sát và vận hành chạy thử NMLD Dung Quất. Ngày 24/10/2003, Hợp đồng
PMC (Tư vấn quản lý, giám sát, vận hành thử nhà máy) đã được
PetroVietnam ký kết với Công ty Stone & Webster (Vương quốc Anh).
Do bổ sung hai phân
xưởng công nghệ xử lý LCO bằng Hyđrô và Izome hóa vào cấu hình nhà máy
nên thiết kế tổng thể FEED do Tư vấn Foster Wheeler lập trước đây cần
phải điều chỉnh và phát triển cho phù hợp. Ngày 18/02/2004, HĐQT Tổng
công ty Dầu khí Việt Nam đã phê duyệt Hợp đồng phát triển thiết kế tổng
thể (FDC) được ký giữa PetroVietnam và Tổ hợp Nhà thầu Technip.
Bên cạnh đó, 4 gói
thầu EPC quan trọng nhất trước đây (EPC 1, 2, 3 và 4) đã được tập trung
vào một hợp đồng để đàm phán và ký kết với Tổ hợp Nhà thầu Technip, như
vậy toàn bộ công tác thiết kế, mua sắm, lắp đặt, chạy thử, chạy nghiệm
thu nhà máy đều do Tổ hợp Technip tiến hành đồng bộ, đảm bảo tiến độ và
chất lượng của nhà máy, tạo điều kiện thuận lợi cho Chủ đầu tư trong
công tác quản lý, giám sát triển khai dự án. Sau một thời gian
tích cực đàm phán, ngày 17/5/2005 Hợp đồng EPC 1+4 đã được ký kết giữa
PetroVietnam và Tổ hợp nhà thầu Technip gồm Công ty Technip France
(Pháp), Technip Geoproduction (Malaysia), JGC (Nhật Bản), Tecnicas
Reunidas (Tây Ban Nha) thực hiện, trong đó Technip France đứng đầu.
Ngày 25/6/2005, Hợp đồng EPC 1+4 bắt đầu có hiệu lực.
Ngày 24/8/2005, Hợp
đồng EPC 2+3 bao gồm khu bể chứa dầu thô, đường ống dẫn sản phẩm, khu
bể chứa và cảng xuất sản phẩm được PetroVietnam ký kết với Tổ hợp nhà
thầu Technip. Ngày 21/9/2005 hợp đồng EPC 2+3 có hiệu lực. Trước đó,
ngày 17/6/2005 Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 546/QĐ-TTg về
việc điều chỉnh Dự án đầu tư NMLD Dung Quất. Tổng mức đầu tư của dự án
theo Quyết định 546/QĐ-TTg là 2,501 tỷ USD chưa bao gồm chi phí tài
chính.
Ngày 28/11/2005, Lễ
khởi công các gói thầu EPC 1+2+3+4 được Tổ hợp Nhà thầu Technip phối
hợp với PetroVietnam tổ chức tại công trường.
Kể từ cuối năm 2005,
công tác thiết kế được tiến hành đồng bộ tại 4 trung tâm lớn của Tổ hợp
nhà thầu ở Paris (Pháp), Yokohama (Nhật), Madrid (Tây Ban Nha) và
Kulalumpua (Malaysia). Việc đặt hàng các hạng mục thiết bị quan trọng,
cần có thời gian chế tạo dài ngày cũng đã được tiến hành. Cũng trong
thời gian này, việc xử lý mặt bằng nhà máy và khởi công xây dựng các
hạng mục phụ trợ, kết cấu hạ tầng phục vụ công tác thi công được Tổ hợp
nhà thầu và các nhà thầu phụ tiến hành khẩn trương.
Quá trình thực hiện
dự án đã gặp rất nhiều khó khăn, thử thách liên quan đến thiết kế kỹ
thuật, thời tiết, điều kiện địa chất, thị trường và nguồn nhân lực. Đây
cũng là lần đầu tiên chúng ta xây dựng một nhà máy lọc hóa dầu với công
nghệ rất hiện đại, tổng mức đầu tư lớn nhất so với các dự án trọng điểm
quốc gia khác. Tuy nhiên, dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Trung ương, sự
phối hợp chặt chẽ của tỉnh Quảng Ngãi, cộng với những nỗ lực vượt bậc
của chủ đầu tư cùng hàng vạn cán bộ, kỹ sư, chuyên gia, công nhân thuộc
các nhà thầu trong nước và quốc tế, NMLD Dung Quất đã được xây dựng
hoàn thành và đưa vào vận hành đúng tiến độ, cho ra dòng sản phẩm
thương mại đầu tiên vào ngày 22/2/2009.
Ngày 30/5/2010, dự
án NMLD Dung Quất chính thức được bàn giao từ Tổ hợp Technip sang cho
chủ đầu tư, kết thúc giai đoạn xây dựng và vận hành chạy thử và nghiệm
thu nhà máy.
Còn tiếp...