45 năm trước, trong cuộc Tổng tấn công và nổi dậy Xuân Mâu Thân - 1968, cùng với các lực lượng chiến đấu trực tiếp đã có những doanh nhân, những nhà tư sản đã không ngại gian nguy, không tiếc của cải tận tâm góp sức cho chiến thắng chung.

 
Đêm giao thừa Tết Mậu Thân (1968),  sau khi chuyển giao xe vũ khí cho một đơn vị biệt động Sài Gòn, ông Ba Ơn (Hồ Văn Ơn) trở về nhà máy dụng cụ học tập Thanh Bình nổi tiếng mà không biết rằng đang sắp xảy ra cuộc tiến công sinh tử của quân Giải phóng vào Sài Gòn. Khi cùng gia đình quây quần bên bàn thờ gia tiên và chuẩn bị châm lửa đốt dây pháo treo trước nhà, bất ngờ tiếng súng rộ lên ở nhiều nơi trong thành phố, ông mới biết rằng sự kiện hằng trông chờ đã diễn ra. 

Ba Ơn quê ở Cần Đước, về Sài Gòn tìm việc làm và học được nghề mộc và dần trở thành người thợ giỏi. Từ chỗ làm công, ông đã tích lũy, xây dựng cơ sở sản xuất, để rồi trở thành ông chủ trẻ ở đất Sài Gòn, chuyên sản xuất dụng cụ học tập. Suốt thời gian dài, các mặt hàng  của Ba Ơn luôn có chỗ đứng vững chắc trên thị trường Sài Gòn và cả miền Nam.
 
Góp ngàn lượng vàng cho cách mạng
 
Một ngày cuối năm 1955, khi ông Ba Ơn đang ngồi quyết toán sau một năm làm ăn thuận lợi, bất ngờ có khách,  Nguyễn Văn Nam (Sáu Nam) là người cùng quê với ông. Thuở nhỏ, ông Ba Ơn và ông Sáu Nam học chung trường sơ học, chơi khá thân với nhau. Sau này ông Sáu Nam theo cách mạng và có tin đã tập kết ra Bắc. Sáu Nam cho biết đến giờ phút cuối, ông được tổ chức bố trí bí mật ở lại miền Nam, chuẩn bị cho cuộc chiến đấu lâu dài.  
 
Sáu Nam tìm gặp Ba Ơn ngay giữa Sài Gòn để nhờ ông giữ giúp khoản tiền của Ban kinh tài. Đó là nguồn kinh phí cho những người ở lại hoạt động, nhưng hiện chưa dùng đến và những người cách mạng cũng  không thể mang theo bên mình.

Nhận số tiền, ông hữa với người bạn, người  cán bộ cách mạng: “Cách mạng tin tưởng, tôi hứa sẽ bảo vệ số tiền này và làm cho nó sinh sôi nảy nở. Dù có phải chết tôi cũng bảo vệ, gìn giữ tài sản của cách mạng. Coi như trong doanh nghiệp của tôi có cổ phần của cách mạng. Lời lãi hàng năm, tôi giữ nguyên, khi nào cách mạng cần, tôi sẽ gửi lại đầy đủ”. Có thêm nguồn tiền, ông Ba Ơn đầu tư công nghệ mới, nhờ đó sản phẩm làm ra càng chất lượng hơn, chiếm lĩnh thị trường dụng cụ học tập Sài Gòn.

Từ đó cho tới năm 1960, ông Ba Ơn không gặp lại người bạn Sáu Nam hay cán bộ cách mạng nào khác. Số tiền của cách mạng gửi, nhờ đầu tư vào sản xuất, đã sinh lãi và ngày càng thêm giá trị. Năm 1960, phong trào Đồng Khởi nổi lên trên khắp miền Nam. Đó cũng là lúc cách mạng  cần đến tiền bạc để chi tiêu, và đã nhận sự chi viện thường xuyên, liên tục từ ông Ba Ơn.  

Theo ông Nguyễn Văn Nam thì số tiền ông Ba Ơn tiếp tế cho kháng chiến cho tới ngày giải phóng tương đương vài chục ngàn lượng vàng, gấp hàng trăm lần số tiền mà cách mạng đã gửi cho ông vào năm 1955. Cái cách tiếp tế cho cách mạng mà ông Ba Ơn thường làm nhất là tìm mua những mặt hàng trong chiến khu đang cần, rồi gửi theo xe đò về Cần Đước, nơi ấy có người chuyển qua chiến khu Rừng Sác để phục vụ kháng chiến. Các mặt hàng được chuyển ra chiến khu nhiều nhất là: hóa chất, dây điện, kim loại quý để chế tạo vũ khí; thuốc chữa bệnh; nhu yếu phẩm...


 
Dù đã rất cẩn trọng, việc tiếp tế cho kháng chiến của ông Ba Ơn cũng có lần bị bại lộ. Một lần, không biết từ nguồn tin nào, cảnh sát đã xộc vào xưởng sản xuất dụng cụ học tập của ông và bắt quả tang những hàng hóa lạ trong các bao mạt cưa đã may miệng chuẩn bị đem giao. Ông đã cắn răng chịu đựng mọi đòn tra khảo, không khai bất cứ điều gì có hại cho cách mạng, cùng lúc gia đình ông cùng tổ chức ở bên ngoài chạy lo lót cho ông. 

Ngày ấy, mọi thứ đều có thể đánh đổi bằng tiền và ông Ba Ơn đã được trả tự do với cái giá hàng trăm cây vàng. Không chỉ tự cứu lấy mình, nhờ “mạnh vì tiền”, ông Ba Ơn còn cứu nhiều trường hợp cán bộ cách mạng bị bắt hoặc người dân vì ủng hộ cách mạng mà bị bắt. 

Suốt thời gian dài, phần lớn tài sản, lợi nhuận làm ra từ xưởng sản xuất dụng cụ học tập của ông Ba Ơn đã được phục vụ cho cách mạng, cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.

Chuyến hàng cuối năm

Chiều 30 Tết Mậu Thân (1/1968), mặc cho các lực lượng kiểm soát của chính quyền Sài Gòn rải đầy ở các cửa ngõ thành phố, người dân ở các tỉnh lân cận vẫn đổ dồn về thành phố chuẩn bị đón giao thừa.
Do đêm hôm trước, quân giải phóng đã tiến công một số đô thị miền Trung, nên chính quyền Sài Gòn tỏ ra cẩn thận, cảnh sát và quân cảnh kiểm tra ngặt nghèo người và các phương tiện vào thành phố. Trên sông Cần Giuộc từ hướng huyện Cần Đước, Cần Giuộc (thuộc tỉnh Long An), từng đoàn ghe cũng hối hả rẽ sóng hướng về phía quận 8 – Sài Gòn. 

Trong số đó, có một chiếc ghe bầu chở trấu cao có ngọn do một thanh niên chạy máy và cầm tay lái sau ghe và một cụ già ngồi trước đầu ghe để “canh đường”. Đến trạm kiểm soát cầu Ông Thìn, chiếc ghe chở trấu nói trên phải dừng lại, tấp vào bờ theo yêu cầu của lực lượng kiểm soát trên bờ. Nhưng nhờ ứng xử khéo léo ghe được cho đi, tiếp tục cuộc hành trình.

Những người cảnh sát ấy không có kinh nghiệm, bởi nếu tinh ý, họ sẽ phát hiện ra hiện tượng lạ: chiếc ghe chở trấu (loại hàng hóa rất nhẹ) lại làm chiếc ghe bầu bị khẳm đến nửa thân ghe. Bởi phía dưới lớp trấu kia, nằm giữa hai lớp đáy chiếc ghe là hàng tấn vũ khí được hối hả vận chuyển vào Sài Gòn để kịp cung cấp cho các lực lượng nổi dậy ngay trong đêm giao thừa năm ấy.

Cụ già ngồi trước mũi ghe là ông Hai Hiền, một đảng viên thuộc chi bộ xã Tân Lân – huyện Cần Đước được Huyện ủy Cần Đước phân công chở ghe vũ khí từ Rừng Sác về trung tâm thành phố Sài Gòn vào buổi chiều cuối năm để giao cho Ba Ơn. 

Chiếc ghe chở trấu do ông Hai Hiền dẫn đường vào bến Bình Đông rồi theo kênh Lò Gốm vào tận quận 6 khi trời vừa sụp tối. Chiếc ghe ghé lại một ngôi nhà sàn ven sông, nơi Ba Ơn đang ngồi đợi sẵn. Chỉ trong chốc lát, trấu trên ghe được tuôn hết xuống sông, để lộ đáy ghe. Hơn 1 tấn vũ khí các loại được bí mật và gấp rút lấy lên từ đáy ghe và cho lên chiếc xe tải nhỏ đang đậu sát cửa nhà. 

Thế nhưng, cũng như Ba Ơn,  Hai Hiền không ngờ rằng, nửa đêm hôm ấy, quân giải phóng đã đồng loạt tiến công các đô thị miền Nam, trong đó có Sài Gòn, chính thức bắt đầu cuộc tổng tiến công Xuân Mậu Thân. Chuyến hàng cuối năm của họ đã góp phần vào cuộc tiến công “trời long đất lở” làm rung chuyển cả Nhà trắng và Lầu năm góc bên kia bờ đại dương.
 
Tiếp tục nghiệp kinh doanh

 
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, ông Ba Ơn là một trong những người đầu tiên ở Sài Gòn hiến toàn bộ cơ sở sản xuất cho Nhà nước. Ông được giữ lại làm “phó giám đốc” của nhà máy từng là của chính mình. Đến năm 1982, ông về nghỉ hưu trên mảnh đất của ông bà để lại ở vùng quê xã Tân Lân.
Đến thời kỳ đất nước mở cửa, Nhà nước khuyến khích người dân phát triển sản xuất, làm giàu chính đáng, ông lại rời quê hương về Sài Gòn mày mò gầy dựng lại nghề sản xuất dụng cụ học tập bằng gỗ ngày trước. Bằng sự mẫn cảm của một người từng có mấy chục năm lăn lộn trên thương trường, ông nhận thấy mặt hàng dụng cụ học tập đang bị cạnh tranh gay gắt, trong khi đó có một mặt hàng khác đang còn “bỏ ngỏ”, chủ yếu sử dụng hàng nước ngoài, đó là cọ sơn.

Còn bao nhiêu vốn liếng, ông dồn hết vào mở xưởng sản xuất cọ sơn. Nhờ có một người con định cư ở nước ngoài từ trước năm 1975, ông đã nhập được nguyên - phụ liệu để sản xuất ra các loại cọ sơn chất lượng cao, không thua kém hàng ngoại nhập. Mặt hàng cọ sơn của ông đã nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường. Cùng với sự phát triển của đất nước, hoạt động xây dựng ngày càng nhộn nhịp hơn, đã là cơ hội cho nghề sản xuất cọ sơn của ông Ba Ơn phất lên nhanh. 

Ông đã ra đi ở tuổi 90 nhưng sự nghiệp của ông không vì thế mà chấm dứt, bởi một người con của ông - anh Hồ Văn Bền - từ lâu đã thể hiện khả năng kế tục xứng đáng, phát triển sự nghiệp của cha lên tầm cao hơn với doanh nghiệp Thanh Bình Sản Xuất Cọ Sơn.

Nam Khánh