- Bộ Tài chính vừa kiến nghị cần phải tăng giá khí bán cho sản xuất điện. Điều này sẽ ảnh hưởng giá thành của 44% sản lượng điện cả nước hiện nay.

Bộ này cho biết, nguồn điện huy động từ các nhà máy nhiệt điện khí chiếm tới khoảng trên 40% tổng cơ cấu nguồn điện cả nước.

Cơ chế giá khí bán cho điện hiện nay được chia làm hình thức, một loại giá là bán theo sản lượng trong bao tiêu được cam kết tại các hợp đồng ký giữa Tập đoàn dầu khí Việt Nam với các 2 nhà máy điện BOT Phú Mỹ 2.2 và BOT Phú Mỹ 3 và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), một loại giá là bán theo sản lượng ngoài bao tiêu.

{keywords}

Bộ Tài chính vừa kiến nghị cần phải tăng giá khí bán cho sản xuất điện.

Tính đến thời điểm này, giá khí trong bao tiêu bán cho điện vẫn còn rất thấp so với giá thị trường. Theo các hợp đồng được Chính phủ bảo lãnh ký từ những năm 2001, giá khí được xác định cụ thể theo từng năm, như năm 2013 là 3,75USD/trBTU, năm 2014 là 3,82 USD/trBTU, năm 2015 là 3,9USD/trBTU, tới năm 2023 mới là 4,45 USD/trBTU.

So với giá khí ngoài bao tiêu đã từng trên 8 USD ở thời điểm năm 2013 thì các mức giá trên chưa đến 50%.

Trong khi đó, lượng khí trong bao tiêu bán cho sản xuất điện có tổng sản lượng khoảng 3,55 tỷ m3/năm, cao hơn cả lượng khi ngoài bao tiêu bán cho cả điện và sản xuất đạm hàng năm.

Bộ Tài chính cho rằng, trong thời gian tới, cần phải tiến tới thực hiện giá thị trường đối với lượng khí trong bao tiêu, tránh trường hợp chênh lệch giá dẫn đến cạnh tranh không bình đẳng giữa các nhà máy nhiệt điện khí. Việc điều chỉnh giá khí cho điện trong bao tiêu cần được xem xét để tránh mức tăng đột biến đối với chi phí sản xuất điện.

Ngược lại, giá khí ngoài bao tiêu đã có lộ trình thị trường rất rõ ràng theo chủ trương của Chính phủ hồi giữa năm nay. Từ 1/4 năm nay, giá khí này dã bằng 70% giá thị trường cộng chi phí vận chuyển, phân phối, từ ngày 1/7 bằng 80% và ngày 1/1/2015 bằng 100% mức thị trường cộng các chi phí trên. Trong đó, giá khí thị trường là giá khí miệng giếng được xác định bằng 46% giá dầu madut trung bình tháng tại thị trường Singapore.

Đối với giá than cho sản xuất điện, tính đến nay mới bằng 86%-91% giá than xuất khẩu cùng chủng loại nên thời gian tới, mặt hàng này cũng sẽ cần điều chỉnh tiếp.

Các đề nghị trên sẽ là cơ sở làm tăng giá thành, giúp cho EVN có thêm lý do chính đáng để tăng giá điện năm 2015.

Phạm Huyền