Ngày 25/12/2012, Công ty Cổ phần Báo cáo đánh giá Việt Nam (VietNam Report) công bố báo cáo nghiên cứu thường kỳ Policy Debate số 07, với chủ đề "Niềm tin thị trường và biến động thị trường chứng khoán Việt Nam".
Nghiên cứu được tiến hành
trong khuôn khổ các hoạt động nghiên cứu chuẩn bị cho việc công bố VNR500 (Top
500 doanh nghiệp lớn nhất Việt Nam) dự kiến diễn ra vào ngày 18 tháng 1 năm 2013
tới đây.
Nghiên cứu được tiến hành dựa trên việc phân tích lượng hóa nội dung truyền
thông (Media Content Analysis) nhằm đánh giá hình ảnh, uy tín của các doanh
nghiệp và lòng tin của thị trường và nhà đầu tư thể hiện trên truyền thông, được
Tập đoàn Media Tenor International (Thụy Sỹ) hiện thực hóa và áp dụng. Phân tích
của Media Tenor đã cho thấy chỉ số niềm tin thị trường (thể hiện qua số lượng
tin tiêu cực về thị trường chứng khoán) là một chỉ số dẫn báo và dự báo (leading
indicator) tác động quan trọng đến hành vi của nhà đầu tư và diễn biến giá cổ
phiếu trên thị trường Hoa Kỳ (NASDAQ và Dow Jones), thị trường Đức (DAX), thị
trường Nam Phi và các thị trường Đông Âu.
Dựa trên phương pháp phân tích nội dung truyền thông này, VietNam Report đã tiến
hành mã hóa (coding) và thiết lập cơ sở dữ liệu về nội dung các bản ghi trên
truyền thông nhằm phân tích uy tín của 50 công ty có giá trị vốn hóa lớn nhất
trên thị trường chứng khoán thông qua 24 tiêu chí cụ thể nhằm đánh giá sự ảnh
hưởng và mức độ tích cực trong hiện diện của các công ty này trên truyền thông,
cũng như đánh giá tổng quan niềm tin của giới truyền thông vào thị trường chứng
khoán Việt Nam. Gần 4000 bản ghi về doanh nghiệp xuất hiện trên truyền thông đã
được mã hóa và nghiên cứu, mỗi bản ghi được phân chia thành các đơn vị mã hóa
(coding units) theo luật 5 dòng (5 line rules) về các khía cạnh hoạt động của
các ngân hàng từ sản phẩm, kết quả kinh doanh, thị trường ... tới các hoạt động,
hình ảnh và uy tín lãnh đạo của các doanh nghiệp.
Những kết quả chính của nghiên cứu bao gồm:
Uy tín truyền thông dẫn dắt biến động chứng khoán
Các bài viết trên truyền thông phân tích về sức mạnh của công ty niêm yết có ảnh
hưởng lớn tới niềm tin của công chúng. Niềm tin của một nhà đầu tư cá nhân
thường không phải là ngẫu nhiên và có tương quan với các nhà đầu tư cá nhân khác
do họ lắng nghe nhau cũng như cùng xem các báo và chương trình truyền hình tương
tự. Do đó, một tin tức về một thay đổi nhỏ trong thu nhập của một công ty hoặc
một chỉ số kinh tế vĩ mô cơ bản có thể dẫn tới sự thay đổi về giá lớn hơn so với
mức thay đổi lý thuyết. Ngoài ra, niềm tin còn có xu hướng tồn tại cho đến khi
các nhà đầu tư có đầy đủ lý do để thay đổi niềm tin của họ.
Vietnam Report sử dụng kiểm định Granger (Granger causality test) để xác đinh mối quan hệ nhân quả giữa biến động hàng ngày của VNINDEX trong 9 tháng đầu năm 2012 với chỉ số về suy giảm niềm tin vào thị trường (hiệu số giữa tổng số tin tiêu cực và tin tích cực trên truyền thông) trong cùng giai đoạn này. Kết quả kiểm định cho thấy có quan hệ nhân quả giữa chỉ số niềm tin của thị trường và biến động của giá cổ phiếu (thể hiện qua chỉ số VNIndex). Khi hiệu số giữa lượng tin tiêu cực và tin tích cực về các doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán tăng lên, các nhà đầu tư sẽ có xu hướng tháo chạy khỏi thị trường thông qua giảm giá các cổ phiếu mà họ đang nắm giữ.
![]() |
| Hình 1: VNINDEX và niềm tin vào TTCK, 9 tháng đầu năm 2012. Nguồn: Dự án đánh giá uy tín truyền thông DNNY do Vietnam Report tiến hành. 3756 tin bài trên 3 nhật báo trong 9 tháng đầu năm 2012 đã được thu thập mã hóa và phân tích. |
Hình một cho ta thấy mối quan hệ giữa hai chỉ số (được thể hiện qua đường màu xanh với đơn vị ở trục bên phải) của các doanh nghiệp chứng khoán và chỉ số VNindex trong 9 tháng đầu năm 2012. Chỉ số này có quan hệ nghịch với chỉ số Vnindex. Sự gia tăng các tin xấu trên truyền thông của các doanh nghiệp niêm yết thường được đi kèm theo sự sụt giảm về chỉ số VNindex với độ trễ nhất định về thời gian.
Tin xấu trên truyền thông tác động với độ trễ 3 ngày tới chỉ số VNIndex
Kết quả kiểm định Granger test chỉ ra rằng, sự suy giảm trong niềm tin vào thị trường có ảnh hưởng tiêu cực tới chỉ số VNINDEX. Kết quả kiểm định cho thấy, về mặt thống kê, chỉ số VNINDEX bị ảnh hưởng bởi sự gia tăng trong hiệu số về tin tiêu cực và tin tích cực từ 3 ngày trước đó.
Ở chiều ngược lại, VNINDEX không có ảnh hưởng về mặt thống kê tới chỉ số về niềm tin vào thị trường. Kiểm định Granger 2 không chỉ ra được rằng VNINDEX có ảnh hưởng tới hiệu số tin tiêu cực và tin tích cực.
Xét ở cấp độ từng doanh nghiệp niêm yết, ta có thể thấy được mối tương quan tương tự giữa chỉ số niềm tin và chỉ số giá chứng khoán. Một trong những ví dụ điển hình là những thông tin không tốt về ban lãnh đạo của doanh nghiệp có ảnh hưởng tiêu cực tới giá cổ phiếu ngay lập tức. Khi thông tin về CEO Trương Đình Anh của FPT nghỉ phép 2 tháng tràn lên mặt báo, giá cổ phiếu PFT đã bị sụt giảm đáng kể so với giai đoạn đi ngang trước đó. Mức giá cổ phiếu đã giảm tới 20%. Trong trường hợp này, các tin xấu đã xuất hiện khoảng 2 ngày trước khi giá cổ phiếu FPT thực sự sụt giảm.
![]() |
| Hình 2. Biến động của giá cổ phiếu FPT và Chỉ số niềm tin. Nguồn: Dự án đánh giá uy tín truyền thông DNNY do Vietnam Report tiến hành. 3756 tin bài trên 3 nhật báo trong 9 tháng đầu năm 2012 đã được thu thập mã hóa và phân tích. |
![]() |
| Hình 3. Biến động của giá cổ phiếu ACB và Chỉ số niềm tin. Nguồn: Dự án đánh giá uy tín truyền thông DNNY do Vietnam Report tiến hành. 3756 tin bài trên 3 nhật báo trong 9 tháng đầu năm 2012 đã được thu thập mã hóa và phân tích. |
Như vậy, biến động về niềm tin trên truyền thông (thể hiện bằng số lượng tin tiêu cực, hoặc hiệu số tin tiêu cực và tin tích cực) đi trước biến động về khối lượng giao dịch cổ phiếu và giá cổ phiếu, do vậy đây là một chỉ số dẫn báo tốt cho các nhà đầu tư khi dự báo về giá cổ phiếu trong tương lai.
Các doanh nghiệp có thể tác động phần nào đến niềm tin của các nhà đầu tư thông qua chiến lược và các hoạt động truyền thông nhằm giúp nhà đầu tư hiểu rõ hơn về thực trạng và tương lai của doanh nghiệp, qua đó tác động đến sự biến động của thị trường chứng khoán cả về chỉ số giao dịch lẫn khối lượng giao dịch. Bên cạnh các tin tức về chính sách cũng như qui định mới của nhà quản lý mà doanh nghiệp không thể kiểm soát được, các doanh nghiệp có thể cải thiện niềm tin của các nhà đầu tư thông qua các hoạt động quảng bá về hình ảnh của doanh nghiệp, về chiến lược kinh doanh và các sản phẩm mới của doanh nghiệp để có thể có đạt được các mục tiêu tài chính của doanh nghiệp trên thị trường chứng khoán.
| Những lưu ý khi sử dụng thông tin Báo cáo "Niềm tin thị trường và biến động thị trường chứng khoán Việt Nam" được thực hiện bởi Phòng Nghiên cứu, Công ty cổ phần Báo cáo Đánh giá Việt Nam (VietNam Report), dựa trên phân tích những dữ liệu mã hóa theo ngành (Branch Coding) từ các bài báo thuộc 03 tờ báo tại Việt Nam, bao gồm: Thời báo kinh tế Việt Nam (VNeconomy), Thời báo Kinh tế Sài Gòn và Báo Đầu tư chứng khoán. Số lượng 03- 05 đầu báo dựa trên thông lệ của tập đoàn Media Tenor về số đầu báo tiến hành coding. Các thông tin được lựa chọn để mã hóa (coding) dựa trên 02 nguyên tắc cơ bản: Tên doanh nghiệp xuất hiện ngay trên headline của bài báo, hoặc tin tức về doanh nghiệp được đề cập tối thiểu chiếm 05 dòng trong bài báo, đây được gọi là ngưỡng nhận thức- khi thông tin được đánh giá là có giá trị phân tích. Các cấp bậc dùng trong đánh giá về ngân hàng bao gồm: 0: Trung lập; 1: Tích cực; 2: Khá tích cực; 3: Trung bình; 4: Khá tiêu cực; 5: Tiêu cực. Tuy nhiên, thống kê lại, nhóm nghiên cứu đưa ra 3 cấp bậc để đánh giá cuối cùng, bao gồm: Trung lập (gồm 0 và 3), tích cực (1 và 2), và tiêu cực (4 và 5). Cần lưu ý rằng kinh nghiệm quốc tế cho thấy nội dung của các bài báo và phân tích truyền thông trong một thời điểm nhất định về một vấn đề kinh tế -xã hội nhất định không phải luôn luôn chuẩn xác và toàn diện so với thực tiễn vốn rất đa dạng và luôn biến đổi. Tuy nhiên, kinh nghiệm quốc tế cũng cho thấy, cho dù có độ chuẩn xác và toàn diện tới đâu, nội dung truyền thông luôn tác động rất lớn tới công chúng. Người dân nắm bắt và đánh giá tình hình thực tiễn chủ yếu qua các nội dung truyền tải trên truyền thông. Chính vì vậy, việc nghiên cứu nội dung truyền thông và uy tín trên truyền thông là cần thiết để giúp các bên có liên quan có những điều chỉnh phù hợp. Báo cáo này được xem như tài liệu tham khảo cho các doanh nghiệp và đối tác trong quản lý hoạt động truyền thông, nhưng không có giá trị như một sản phẩm phục vụ hoạt động đầu tư và không dùng cho bất cứ chiến lược kinh doanh nào. Những nhận định trong báo cáo này mang tính tổng quát và không nên xem như nhận định cá nhân, vì tài liệu này được chuẩn bị không dựa vào mục đích, tình trạng tài chính hay nhu cầu của bất cứ nhà đầu tư cụ thể nào. Do đó, các bên có liên quan nên cân nhắc kỹ tính phù hợp của các thông tin trên trước khi sử dụng chúng để đưa ra quyết định đầu tư của mình, và hoàn toàn chịu trách nhiệm trong việc sử dụng các thông tin đó.. |
Vietnam Report


