Vụ án "vườn cam" xảy ra tại một vùng quê nghèo trở thành chuyện ly kỳ gây sự quan tâm đặc biệt đối với người dân xứ dừa trong một thời gian dài.

TIN BÀI KHÁC

Kẻ thủ ác đã thừa nhận tội lỗi, nhưng khi đối diện với bản án tử hình lại kêu oan. Hai ngày trước khi thi hành án tử hình, TAND tỉnh Bến Tre nhận được chỉ đạo tạm dừng. Gần một năm sau, các cơ quan bảo vệ pháp luật tỉnh Bến Tre có văn bản đề nghị cho thi hành án thì nhận được kháng nghị giảm án từ tử hình xuống chung thân.

...Phút 89

Tối 12-6-1997, Huỳnh Văn Minh (SN 1975, ngụ xã Phú Đức, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre) từ chòi giữ vườn cam của mình ở Cồn Dơi, xã Phú Đức đã lẻn vào nhà chị N.T.N.L (SN 1968, ngụ cùng xã) định hiếp dâm. Chị L. phát hiện, la làng, Minh nhào tới kéo đè chị xuống đất, bóp cổ cho đến chết rồi thực hiện hành vi đồi bại, sau đó kéo xác nạn nhân xuống mương. Cái chết oan uổng, tức tưởi của nạn nhân làm dư luận căm phẫn. Chị L. đột ngột ra đi bỏ lại ba đứa con thơ sinh năm 1987, 1988 và 1989.
Anh Nguyễn Văn Hiệp bên bàn thờ vợ.

Bị bắt khẩn cấp ngày 26-6-1997 thì chiều hôm sau Huỳnh Văn Minh đã khai nhận toàn bộ hành vi tội ác của mình. Để kiểm tra lời khai của Minh, ngày 5-7-1997 Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bến Tre đã thực nghiệm điều tra, cho Minh tự thực hiện lại hành vi mà y đã làm trong đêm 12-6. Kết quả được ghi lại bằng hình ảnh cho thấy những động tác, hành động của Minh khi thực nghiệm hoàn toàn phù hợp với lời khai nhận tội, phù hợp với dấu vết để lại hiện trường cũng như trên thi thể nạn nhân cùng những tài liệu, chứng cứ khác.

Tại phiên tòa sơ thẩm ngày 5-8-1997 Minh thành khẩn nhận tội. Xét hành vi phạm tội đặc biệt nghiêm trọng của Minh, TAND tỉnh Bến Tre tuyên phạt bị cáo ở khung hình phạt cao nhất là tử hình về tội “giết người”, ba năm tù về tội “hiếp dâm”, tổng hợp hình phạt là tử hình. Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 21-11-1997, Minh phủ nhận lời khai ban đầu và kêu oan. Trước những chứng cứ quá rõ ràng, tòa phúc thẩm TAND tối cao tại TPHCM đã tuyên y án sơ thẩm.

Ngay sau khi án tuyên, gia đình Minh làm đơn gửi đi khắp nơi từ Trung ương đến địa phương, trong đó có Viện KSND tối cao để kêu oan. Không chỉ các cơ quan bảo vệ pháp luật, kể cả lãnh đạo tỉnh Bến Tre phải chịu nhiều áp lực bởi hàng loạt công văn, thư từ khắp nơi chuyển về yêu cầu làm rõ đơn tố cáo của gia đình Minh. Vụ án trở thành tâm điểm của dư luận khi Phó viện trưởng Viện kiểm sát (VKS) tối cao lúc đó là ông Phạm Sỹ Chiến ký kháng nghị giám đốc thẩm số 51/KSXXHS ngày 11-7-1998 đề nghị TAND tối cao hủy cả hai bản án hình sự sơ thẩm và phúc thẩm để điều tra lại lý do: “Những tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án chưa đủ cơ sở kết luận Minh phạm tội giết người và hiếp dâm”.

Tại phiên tòa xét xử giám đốc thẩm vào ngày 8-4-1999, Ủy ban Thẩm phán TAND tối cao dưới sự chủ tọa của ông Trịnh Hồng Dương (lúc đó là Chánh án TAND tối cao) sau khi kiểm tra lại toàn bộ hồ sơ và xem xét các chứng cứ liên quan đến vụ án đã ra quyết định không chấp nhận kháng nghị của VKS tối cao, giữ nguyên bản án phúc thẩm ngày 21-11-1997 đối với bị cáo Huỳnh Văn Minh. Đã qua ba cấp xét xử nhưng vẫn có tờ báo cho rằng Minh bị oan và đưa ra kháng nghị số 79/KSXXHS ngày 12-4-2000 của Viện trưởng VKS tối cao ký đề nghị xét xử giám đốc thẩm theo hướng bị cáo vô tội. Nhưng ngay sau đó, VKS tối cao có văn bản khẳng định: “VKS tối cao không ban hành kháng nghị số 79/KSXXHS”. Sau sự cố trên, cả VKS tối cao và TAND tối cao đều có quyết định không kháng nghị đối với Huỳnh Văn Minh.

Hai ngày trước khi cho thi hành án tử hình đối với Huỳnh Văn Minh (vào sáng 9-11-2001), TAND Bến Tre lại nhận được chỉ đạo từ TAND tối cao tạm dừng. Minh thoát án tử hình ở phút 89.

Thoát án tử hình lần 2

Ngày 15-10-2002, đoàn kiểm tra liên ngành gồm đại diện VKS tối cao, TAND tối cao và Bộ Công an trực tiếp đến tỉnh Bến Tre tìm hiểu toàn bộ sự việc liên quan đến “vụ án Vườn Cam” đồng thời đến tận buồng giam kiểm tra bị án Huỳnh Văn Minh. Khi được hỏi có muốn làm đơn kêu oan hay xin ân giảm thì Minh lắc đầu, nói “không”. Ngay sau đó, các cơ quan bảo vệ pháp luật tỉnh Bến Tre có văn bản đề nghị cho thi hành án.

Ngày 2-1-2003, Cơ quan CSĐT - Bộ Công an đã có văn bản kiến nghị nêu rõ: Vụ án Huỳnh Văn Minh đã được Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bến Tre tiến hành điều tra một cách khách quan toàn diện, đúng người, đúng tội, theo đúng qui định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Vụ án đã qua ba cấp xét xử đều tuyên phạt tử hình đối với bị cáo Huỳnh Văn Minh. VKS tối cao, TAND tối cao đều có quyết định không kháng nghị, án đã có hiệu lực, bản thân bị cáo Minh không làm đơn kêu oan, không làm đơn xin ân giảm. Cơ quan CSĐT - Bộ Công an kiến nghị lãnh đạo Bộ Công an, VKS tối cao và TAND tối cao thống nhất báo cáo Chủ tịch nước chỉ đạo TAND tỉnh Bến Tre sớm thi hành án tử hình đối với bị án Minh. Văn bản còn kiến nghị làm rõ nguồn gốc bản kháng nghị “giả” số 79/KSXXHS.

Đang chờ hồi âm thì các cơ quan bảo vệ pháp luật tỉnh Bến Tre nhận được quyết định giám đốc thẩm số 35/HS-TK do Chánh án TAND tối cao lúc đó là ông Nguyễn Văn Hiện ký ngày 18-8-2003 đề nghị Hội đồng thẩm phán TAND tối cao xét xử lại vụ án theo hướng giảm hình phạt cho Huỳnh Văn Minh từ tử hình xuống chung thân. Quyết định nêu rõ: “Tòa án sơ thẩm, phúc thẩm và giám đốc thẩm kết án Huỳnh Văn Minh về tội giết người và hiếp dâm là có căn cứ. Tuy nhiên, xét thấy tối 12-6-1997 Minh đến nhà chị L. với mục đích để hiếp dâm, khi bị chị L. phát hiện kêu cứu và chống cự, sợ lộ nên Minh bóp cổ L. dẫn đến cái chết. Hành vi giết người của bị cáo là bột phát, không có ý định từ đầu. Khi chị L. chết, bị cáo không thực hiện đến cùng hành vi hiếp dâm. Sau khi bị bắt giam, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình, tỏ thái độ ăn năn hối cải. Tòa án cấp sơ thẩm có xét đến tình tiết này nhưng trong phần quyết định của bản án không áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định của pháp luật đối với Minh là thiếu sót. Về nhân thân, bị cáo chưa có tiền án, tiền sự hoặc sai phạm gì ở địa phương. Vì vậy, căn cứ vào tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân bị cáo và đánh giá toàn diện các tình tiết khác về vụ án, cũng như yêu cầu áp dụng hình phạt tử hình trong tình hình hiện nay thì mức hình phạt mà tòa án các cấp áp dụng đối với Minh là không cần thiết...”.

Vậy là Minh nhận hình phạt tù chung thân, thoát khỏi án tử hình lần thứ hai. Vụ án khép lại nhưng hậu quả mà gia đình nạn nhân gánh chịu không gì có thể bù đắp. Dù chỉ gặp một lần vào năm 2003 nhưng chúng tôi vẫn nhớ mãi hình ảnh anh Nguyễn Văn Hiệp (chồng nạn nhân) và ba đứa con trai. Từ phà Rạch Miễu, phải mất hơn một giờ chúng tôi mới đến được nhà ông Hiệp ở ấp Phú Minh, xã Phú Đức, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre sau khi vượt qua con đường đất đỏ ngoằn ngoèo, lầy lội vì mưa dầm nhiều ngày. Cụ Nguyễn Văn Nghĩa (cha anh Hiệp) cho biết: “Sau khi con L. bị sát hại thì thằng Hiệp như kẻ mất hồn, đi lang thang khắp nơi; ba đứa nhỏ mất mẹ, không ai chăm sóc, sống nheo nhóc! Nghĩ tới cái chết thê thảm của vợ ngay cạnh nhà, nó không thể nào ở chỗ cũ được nữa nên vài tháng sau bốn cha con xin về nương tựa ở nhà tôi. Bỏ sao đành, suốt nhiều năm qua, hai vợ chồng già này phải è lưng nuôi cả bốn cha con nó”.

Đứng bên bàn thờ vợ, anh Hiệp nghẹn ngào: “Suốt nhiều năm qua, tôi sống như người đã chết. Nếu không có ông bà già cùng gia đình vợ lo cho ba đứa nhỏ, tôi chẳng biết phải làm sao. Trước khi xảy ra vụ án, vợ chồng tôi sống rất hạnh phúc bên ba đứa con thông minh, học giỏi. Hai vợ chồng làm nghề mua bán trái cây, cộng với việc chăn nuôi heo, gà, dê... cùng hai công vườn cam của cha mẹ cho khi ra riêng nên thu nhập khá ổn định. Đùng một cái tai họa giáng xuống làm tan nhà nát cửa...”.

Đề cập đến vụ án “Vườn Cam”, đại tá Lê Thanh Hải (nguyên Phó thủ trưởng Cơ quan CSĐT Công an tỉnh Bến Tre, hiện là Trưởng công an huyện Giồng Trôm) thổ lộ: “Từng tham gia điều tra hàng trăm vụ án lớn nhỏ, trong đó có nhiều vụ giết người, nhưng đây là vụ án để lại trong tôi ấn tượng nhất với nhiều kỷ lục và sự bất ngờ diễn ra suốt 6 năm cho đến khi Minh thoát án tử hình”.

(Theo Công an TP.HCM)