Cuộc Cải cách Minh Trị ở Nhật Bản năm 1868 là sự kiện có tính bước ngoặt cho việc xây dựng một nhà nước Nhật Bản hiện đại và là chủ đề hấp dẫn đối với giới nghiên cứu Việt Nam. Sự kiện này đã đánh dấu sự mở đầu cho một tiến trình hiện đại hóa và công nghiệp hóa kéo dài 30 năm, đưa Nhật Bản từng bước trở thành một quốc gia phát triển độc lập, hiện đại và hùng cường trong khu vực.
Khi xét về thời kỳ này người ta thường nhắc đến Thiên hoàng Minh Trị, người đặt nền móng cho sự "thần kỳ Nhật Bản". Tuy nhiên, phía sau vai trò của Thiên hoàng có hay không những căn nguyên, những đóng góp của các nhân vật khác? Và tại sao trong rất nhiều quốc gia khu vực có chung hoàn cảnh lịch sử, điều kiện xã hội như Nhật Bản lại không có được bước phát triển thần kỳ đó?
Nhà khảo cứu lịch sử Đào Trinh Nhất đã từng lý giải tất cả những thắc mắc này qua cuốn sách Nước Nhật Bổn 30 năm duy tân nay được tái bản thành Nhật Bản duy Tân 30 năm và vừa ra mắt bạn đọc trong tháng 5/2015.
Bằng ngòi bút phê bình sắc sảo pha chất ký sự lịch sử và cách làm việc nghiêm túc, thận trọng, tác giả đã thu thập được những thông tin chính xác, hệ thống về điều kiện địa lý tự nhiên, đặc điểm chủng tộc, các sự kiện lịch sử cùng những nhân vật quan trọng trong giai đoạn này của Nhật Bản. Cuốn sách cũng phân tích rõ lý do tại sao Nhật Bản có thể bắt kịp các nước phương Tây chỉ trong vòng 30 năm trong khi phương Tây phải mất 300-400 năm để đạt được trình độ như vậy.
Một điều thú vị là trong quá trình lý giải các nguyên nhân đó, bằng cái nhìn thận trọng dựa trên những căn cứ xác thực, không vu vơ, không tưởng tượng, tác giả đã đặt quốc gia này trong hệ quy chiếu với các nước trong khu vực, như Trung Quốc, Nam Dương... trong đó có Việt Nam, để thấy rõ căn nguyên tại sao chúng ta đã không thể chuyển mình ngoạn mục như Nhật Bản.
Theo Đào Trinh Nhất, dân tộc Nhật Bản trước hết nhờ sự tin tưởng mình là Thần quốc mà được bền bỉ lâu dài, xưa nay không bị ngoại hoạn; lại nhờ có địa lý hun đúc khiến cho người Nhật có nhiều đức tính tốt: tự tôn, coi trọng danh dự, thượng võ, hiếu chiến, coi cái chết như không và đặc biệt là biết dung hòa tốt. Sau hết nhờ chế độ phong kiến đắp đổi đã thao luyện tinh thần, trí hóa cho họ, cho nên đến khi gặp thời thế phong trào duy tân của họ được nhanh chóng thực hiện và gặt hái thành công.
Ngoài ra, người Nhật cũng chịu ảnh hưởng bởi tư tưởng Nho giáo Trung Hoa nhưng họ biết tiếp thu có chọn lọc, không mù quáng theo khoa cử, kinh nghĩa, thi phú và sĩ phu không bị danh lợi của cử nhân, tiến sĩ làm cho mê muội. Họ cũng không mê tín, không tin phong thủy, bói toán, không đốt vàng mã, không tin quỷ thần. Vì thế, khi thấy có Tây học văn minh thì họ không chần chừ, nghi ngại mà theo ngay.
Điển hình cho sự khác biệt về tư tưởng này là phụ nữ Nhật Bản có địa vị, được tôn trọng từ rất sớm. Nếu Việt Nam chỉ có duy nhất một vị vua nữ là Lý Chiêu Hoàng, và cũng chỉ tại vị được hơn một năm, ở Trung Hoa có duy nhất Nữ hoàng đế Võ Tắc Thiên; thì ở Nhật có tới mấy đời Thiên hoàng là nữ.
Cũng theo tác giả Đào Trinh Nhất, mô hình cai trị ở Nhật Bản lúc bấy giờ có phần giống với thời vua Lê chúa Trịnh ở Việt Nam. Suốt mấy trăm năm, Thiên hoàng ở ngôi chỉ như phỗng đá, làm vua hư danh vậy thôi, bao nhiêu đại quyền trong nước đều bị các Tướng quân thay nhau nắm giữ. Mặc dầu vậy, đời Mạc phủ nào cũng vẫn dốc lòng tôn kính hộ vệ Thiên hoàng, luôn tỏ ra tuân thủ các nguyên tắc của đạo lý truyền thống, bởi trên danh nghĩa Thiên hoàng vẫn là người có quyền uy cao, đồng thời là biểu tượng cho sự trường tồn và thống nhất dân tộc.
Ngoài Thiên hoàng Minh Trị (Fukuzawa Yukichi) tác giả Đào Trinh Nhất còn giúp chúng ta biết đến vai trò của Đức Xuyên Khánh Hỷ (Tokugawa Yoshinobu), vị Tướng quân cuối cùng đã đóng vai trò quan trọng trong việc nhanh chóng kết thúc chế độ Mạc phủ, trao lại chính quyền cho Thiên hoàng, cũng như tầng lớp tinh hoa của Nhật Bản, những người ngay từ khi tiến hành cuộc duy tân đã biết mấu chốt của cải cách phải bắt đầu từ học thuật tư tưởng.
Giới nghiên cứu ngày nay cũng đồng quan điểm với tác giả Nhật bản duy tân 30 năm khi cho rằng, một những nhân tố quan trọng góp phần tạo nên sự thành công của cuộc cải cách Minh Trị là vai trò của những nhà lãnh đạo mà nổi bật nhất là vai trò của “Duy tân tam kiệt”, bao gồm ba tay chí sỹ Saigo Takamori (Tây Hương Long Thịnh), Okubo Toshimichi (Đại Cửu Bảo Lợi Thông), Kido Takayoshi (Mộc Hộ Hiếu Doãn).
Đây được xem là nhóm lãnh đạo đầu tiên đã có công lèo lái đất nước trong những năm đầu sau cuộc cải cách. Đó là những cánh tay đắc lực đã giúp Thiên hoàng thực hiện những chính sách cải cách về kinh tế, chính trị và quân sự hết sức hiệu quả, góp phần xây dựng chính quyền trung ương và tạo ra một thời kỳ phát triển vượt bậc về văn hóa, luật pháp và quân sự. Các nội dung này cũng được tác giả khảo cứu kỹ lưỡng trong các chương sau chót của cuốn sách.
Đã gần 80 năm trôi qua nhưng Nhật Bản duy tân 30 năm vẫn còn nguyên giá trị thời sự để chúng ta hoàn toàn có thể tự tin mà xếp cạnh những công cuộc kiến tạo quốc gia của cả phương Đông lẫn phương Tây như “Quốc gia khởi nghiệp”, “Đài Loan – Tiến trình hóa rồng” hay “30 năm sóng gió”...
Đào Trinh Nhất (1900-1951) tự Quán Chi, là một học giả, nhà nghiên cứu văn hóa - lịch sử, chính trị - xã hội tài năng. Trong 30 năm cầm bút, ông đã để lại khá nhiều tác phẩm tiêu biểu như: Thế lực khách trú và vấn đề di dân Nam Kỳ (1920), Việt sử giai thoại (1934), Nhật Bản duy tân 30 năm (1936), Phan Đình Phùng - một vị anh hùng có quan hệ đến lịch sử hiện thời (1936), Việt Nam Tây thuộc sử (1937), Đông Kinh nghĩa thục (1938)… Các tác phẩm của ông là tài liệu tham khảo với nhiều phát hiện quý trong quá trình khảo cứu, sưu tầm, thể hiện các góc nhìn đánh giá, phân tích sự kiện khách quan, có giá trị cao về khoa học. |
T.Lê