- Người đàn ông tuổi đã lục tuần nhưng vẫn còn tráng kiện. Một tay ông cầm búa, một tay kềm chặt lấy thanh sắt một đầu nướng đỏ. Nhát búa đập xuống, nhưng tia lửa văng ra. Trước mặt ông, người phụ nữ cũng đã qua tuổi thanh xuân với chiếc búa tạ trong tay cùng ông đập vào thanh sắt. Cả hai búa đập nhịp nhàng tạo ra âm thanh vừa khô khan vừa trầm buồn...
Tiếng búa giữa khu dân cư
“Chẵn 30 năm rồi đó”, chị Trịnh Thị Huệ một người dân trong hẻm nói. Chị cho biết thêm: “Lò rèn này bắt đầu hoạt động từ năm 1982. Ban đầu bà con nghe chưa quen tiếng búa cũng có người khó chịu nhưng riết rồi âm thanh đó trở nên quen thuộc. Những ngày lò rèn im tiếng, cư dân trong xóm cảm thấy như thiếu một thứ gì đó thân thuộc”.
Lò rèn của ông Lê Văn Châu trong xóm nghèo bên hông chợ Nhật Tảo. |
Dường như chính tiếng búa vang lên hàng ngày
ấy đã tạo thành một sợi dây vô hình, gắn kết tình thân ái giữa những người
dân trong xóm với nhau.
Đến 12 giờ trưa. Nhà nhà quây quần bên bữa ăn cũng vừa lúc tiếng búa im bặt.
Nhìn vào bên trong, đôi vợ chồng chủ lò đã ngưng công việc. Người chồng dùng
nước phun lên, dập tắt lò than đang cháy đỏ.
Kềm và búa, dụng cụ hành nghề được xếp vào
một bên. Bên cạnh, những thanh sắt đang được tạo hình, sản phẩm của một buổi
sáng lao động miệt mài được sắp thành hàng ngay ngắn.
Ghé vào một quán nước gần đó, một cụ già kể cho chúng tôi nghe về nhân thân
của người chủ lò. Bằng chất giọng trầm ấm, cụ nhắc lại chuyện xưa: “Thằng
Mười sinh ra và lớn lên tại ngôi nhà nó đang ở. Gia đình nó đông anh em
nhưng toàn là trai, chỉ độc một cô con gái thứ 6 giờ đã đi lấy chồng làm ăn
xa. Ngày nhỏ cũng được ăn học đàng hoàng nhưng đến 17 – 18 tuổi nó bắt đầu
hư...” .
Ông Châu đang thao tác |
Sự có mặt của lò rèn trong khu dân cư này đã tạo nên một sắc thái độc đáo. Trong toàn thành phố, tìm cho được một lò rèn còn đỏ lửa quả là một việc vô cùng khó. Trong lúc ngoài thị trường bày bán nhan nhản các dụng cụ cầm tay được sản xuất hàng loạt theo dây chuyền công nghệ hiện đại, nhưng lò rèn này vẫn ngày ngày vang tiếng búa là điều không ai có thể nghĩ đến.
Châu “cắt” Nguyệt “cụp”
Người trong xóm vẫn thường gọi là ông Mười do thứ tự trong gia đình của ông. Ông chính tên là Lê Văn Châu, sinh 1952, vừa tròn 60 tuổi. Ông Châu người to cao, khỏe mạnh. Gương mặt rắn rỏi nhưng phúc hậu. Giọng nói chậm rãi, từ tốn.
“Cái duyên làm thợ rèn đến với
tôi phát xuất từ một cuộc tình” - ông Châu nói với chúng tôi như thế.
Năm 1982, ông gặp và phải lòng một người con gái rồi kết làm vợ chồng. Lúc
bấy giờ ông đang làm nghề thợ hồ. Thời điểm ấy, ở TP.HCM các công trình, dự
án chưa nhiều nên việc mưu sinh cũng lắm khó khăn, làm một ngày nghỉ dăm bảy
ngày.
Thấy cuộc sống của con mình bấp bênh, bố vợ ông vốn là một thợ rèn gọi về
truyền nghề. Ông học nghề với bố vợ khi đã 30 tuổi.
Ông tâm sự: “Ở cái tuổi này mà còn đi học
nghề thì biết bao giờ mới kiếm được chén cơm. Thế nhưng chính vì đã đứng
tuổi, đã qua cái thời sôi nổi, bồng bột và với quyết tâm cao, tôi chỉ học
hơn 1 năm rồi về đây mở lò, hành nghề đến hôm nay”.
Hai vợ chồng ông sống với nhau được vài năm, có được một mụn con gái thì
'gãy gánh'. Ông trở về cuộc sống đơn thân nhưng hàng ngày lò rèn vẫn đỏ lửa
và tiếng búa vẫn đều đều vang lên.
Một mình, ông cần mẫn làm việc. Chỉ im tiếng vào buổi trưa để cả xóm nghỉ
ngơi, lò rèn của ông luôn tấp nập khách ra vào. Sản phẩm do ông làm ra là
những dụng cụ để phục vụ cho nghề gò hàn xe hơi (làm đồng). Những chiếc kéo
cắt tôn, búa gò, đe cầm tay, đầm dúm (dùng để lận máng nước mui xe) làm ra
không đủ tiêu thụ.
Châu “cắt” - Nguyệt “cụp” |
Rồi ông bước thêm bước nữa. Người vợ sau của ông là bà Nguyễn Thị Minh Nguyệt, kém ông 9 tuổi. Có lẽ cảm thông với sự đơn chiếc, bà Nguyệt lo lắng cho ông từng miếng ăn đến giấc ngủ. Bà cũng chính là người học trò của ông. Hàng ngày bà quanh quẩn bên ông khi thì phụ đập búa, lúc thì cùng ông dọn dẹp. Vậy mà chẳng mấy chốc bà cũng tự mình đứng lò những lúc ông vắng nhà hoặc ốm đau...
Nhiều người trong xóm còn nhớ đến thời hoàng kim của ông. Bà con cho biết lúc bấy giờ tiếng búa của lò rèn đã trở thành một bản nhạc quen thuộc.
Cứ “cắt” rồi “cụp”, cắt...cụp, cắt…cụp giòn rã. Hãn hữu lắm vợ chồng ông mới có một ngày im tiếng. Những lúc đó xóm nhỏ trở nên buồn, lặng và điệp khúc Châu “cắt”, Nguyệt “cụp” thành một thứ âm thanh ru hồn . . .không lẫn vào đâu được.
Trần Chánh Nghĩa
(Còn tiếp)