- Đang đề huề bên vợ con trong một gia đình kiểu mẫu, anh kỹ sư bị người tình cũ truy lùng tận nơi bắt công khai nhận đứa “con rơi” bí mật. Vụ việc trở nên lình xình khi tòa tuyên anh chính là cha ruột đứa trẻ còn anh một mực 'chắc gì nó đã là con tôi'.

Đứa con “bí mật”

Theo nội dung khởi kiện, chị N.T.L.(SN 1969) trình bày: cuối năm 1999 đầu năm 2000, chị chân ướt chân ráo xin vào dạy tại một trường mầm non trên địa bàn quận Bình Thạnh (TP.HCM).

Trong thời gian chị công tác tại đây, chàng sinh viên T.T.H. (SN 1974) ở trọ sát nơi chị L. làm việc. Họ quen nhau. Hai năm sau thì dọn đến ở chung như vợ chồng và dự định tiến đến hôn nhân.

Nhiều người cứ ngỡ rằng mọi chuyện chỉ còn là quá khứ nhưng họ không ngờ khi đã yên bề gia thất lại bị người tình xưa truy lùng để tìm lại cha cho con (ảnh minh họa).

Cuộc sống vốn không như ý muốn, áp lực yêu cô gái hơn mình đến 5 tuổi lại chưa có việc làm ổn định để gánh vác gia đình khiến anh H. chùn bước, lần lữa tìm cách thoái lui.

Cuối năm 2002, chị L. phát hiện mình có thai và mong tổ chức đám cưới. Biết tin, anh H. hết ngỡ ngàng, tìm cách tránh né, chuyển ra ở riêng, nhưng hứa rằng, sẽ chịu trách nhiệm với đứa trẻ chị sinh ra.

Bị người yêu bỏ rơi, bụng mang dạ chửa, chị L. xin nghỉ việc lặn lội ra tận Đà Nẵng tìm đến nhà cha mẹ anh H. trình bày sự việc.

Dù vậy, anh này vẫn quyết không gặp mặt. Chị ở lại Đà Nẵng vượt cạn một mình để tránh búa rìu dư luận. Trong suốt thời gian chị mang thai và sinh con, hàng tháng anh gửi tiền đều đặn vào tài khoản để thực hiện nghĩa vụ làm cha của đứa trẻ. Cậu con trai kháu khỉnh chào đời được đặt tên là N.N.H..

Thời gian cứ thế trôi qua, cuối năm 2008, anh H. đột ngột cắt khoản viện trợ hàng tháng. Qua dò la tìm hiểu, chị L. biết nơi kỹ sư H. đang cư trú cùng vợ “mới” và con nên làm đơn khởi kiện ra tòa án quận này, đề nghị Tòa xác định cha cho đứa con trai “bí mật” của mình.

Không nhận vì chưa làm xét nghiệm ADN

Do Tòa án gửi giấy triệu tập nhiều lần nhưng anh H. lặn mất tăm nên phiên tòa bắt buộc xử vắng mặt.

Căn cứ vào lời khai của chị L. và những bản sao tài khoản thể hiện quá trình anh H. gửi tiền vào tài khoản của chị trong suốt thời gian dài (lần gửi ít nhất là 1,5 triệu đồng, nhiều nhất 12 triệu đồng) nên Tòa tuyên chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị L., xác định anh H. và cha của cháu N.N.H.

Nhận được bản án của Tòa, anh H. mới xuất đầu lộ diện, lật đật làm đơn kháng cáo. Giải thích cho lý do không đến dự tòa, không chịu làm xét nghiệm ADN, kỹ sư này cho biết do thường xuyên công tác vắng nhà, chị vợ giấu nhẹm các giấy tờ liên quan đến vụ việc trên nên anh hoàn toàn không biết.

Tại phiên phúc thẩm, người đàn ông than rằng gia đình đang yên ấm hạnh phúc, chỉ vì chuyện này vợ anh đã ly thân và nhất quyết đệ đơn xin ly hôn, lòng anh rối bời như canh hẹ. Đó là chuyện hệ trọng ảnh hưởng đến hạnh phúc của một gia đình, anh xin cấp phúc thẩm hủy bản án đã tuyên để mong vợ bớt giận, gia đình đoàn viên.

Về những lời trình bày của chị L., lúc đầu anh xác nhận anh và chị L. là hàng xóm quen biết nhau khi anh còn là sinh viên. Từ ngày ra trường, anh công tác trong ngành xây dựng nên thường xuyên phải đi xa, hoàn toàn không có chuyện ăn ở với chị L.

Thế nhưng, tại tòa sau đó kỹ sư này thú nhận ngày xưa thỉnh thoảng có quan hệ với chị L. như vợ chồng. Về việc gửi tiền vào tài khoản chị L., anh cho biết đó là do “bạn bè thấy cô ấy khó khăn nên thương tình giúp đỡ”, hoàn toàn không có chuyện gửi tiền để thực hiện trách nhiệm hay nghĩa vụ gì với đứa trẻ chị L. sinh ra.

Tuy nhiên, cấp phúc thẩm đã bác bỏ những lời trình bày của anh H vì anh không thừa nhận cháu N.N.H. là con ruột nhưng không đưa ra được chứng cứ nào chứng minh. Khi tòa yêu cầu xuất trình chứng cứ chứng minh cháu H. không phải con anh như kết quả giám định ADN, anh cũng không xuất trình được nên tòa tuyên y án sơ thẩm.

Cho rằng tòa “xử ép”, anh H. tiếp tục gửi đơn khiếu nại đề nghị xử lại và khẳng định bản thân mình sẵn sàng tham gia giám định ADN để xác định việc cháu H. có phải con của mình hay không.

Việc anh H không đưa ra được kết quả giám định tại tòa vì cần thêm thời gian để làm xét nghiệm. Việc tòa tuyên ép anh phải nhận con khi chưa làm xét nghiệm AND là hoàn toàn vô lý. Lá đơn được gửi đi trong tâm trạng rối bời của người đàn ông trong cuộc.

Trong khi anh H. phủ nhận tất cả, thì chị L. lại rành rọt kể từng chi tiết liên quan đến mối quan hệ giữa hai người khi xưa, không biết đâu là sự thật? Và có lẽ sự thật về mối ân tình ấy chỉ có người trong cuộc mới hiểu, chuyện thắng thua ở tòa là dựa trên chứng cứ.

Nhưng dù sao, vì một sai lầm trong quá khứ, một gia đình đứng bên bờ vực thẳm của sự đổ vỡ, liệu có đáng hay không?

M.Phượng