– Nghiên cứu năm 2010 cho thấy có trên 70% bệnh nhân ung thư vú tại BV K được chữa khỏi (trong vòng 5 năm bệnh không tái phát, không di căn). Tỉ lệ này tương đương với tỉ lệ tại Singapore.

Ngày 17/7, tại Hà Nội đã diễn ra hội thảo đào tạo nâng cao cho bác sỹ tuyến Trung ương về cập nhật điều trị ung thư vú HER2+.

Đây là một trong những hoạt động cụ thể nhằm nâng cao năng lực cho bác sỹ tuyến trung ương và các tuyến quận/huyện về chẩn đoán và điều trị ung thư vú, nằm trong khuôn khổ các  mục tiêu của Dự án phòng chống bệnh Ung thư vú do Quỹ hỗ trợ bệnh nhân ung thư – Ngày mai tươi sáng (Bộ Y tế) triển khai.

PGS.TS Trần Văn Thuấn, Phó Giám đốc BV K, Viện trưởng Viện nghiên cứu phòng chống ung thư cho biết nghiên cứu năm 2010 cho thấy có trên 70% bệnh nhân ung thư vú tại BV K được chữa khỏi (trong vòng 5 năm bệnh không tái phát, không di căn). Tỉ lệ này tương đương với tỉ lệ tại Singapore.

{keywords}
Hội thảo chiều 17/7 cập nhật điều trị ung thư vú HER2+ 

Hiệu quả của việc điều trị ung thư vú phụ thuộc lớn vào giai đoạn phát hiện và kích thước khối u, độ mô học, độ hạch nách và một số yếu tố khác song nhìn chung phát hiện càng sớm thì điều trị càng đơn giản và hiệu quả, tỉ lệ khỏi cao.

Theo PGS Trần Văn Thuấn, trình độ khám, phát hiện và điều trị ung thư vú ở Việt Nam nói riêng (và ung thư nói chung) tương đương với các nước khác trong khu vực.

Hiện nay có nhiều phương pháp điều trị ung thư vú. Việc lựa chọn phương pháp nào để điều trị phụ thuộc giai đoạn bệnh và tình trạng nội tiết cũng như các yếu tố khác.

Với phương pháp phẫu thuật, hiện nay có xu hướng gia tăng phẫu thuật bảo tồn để giảm số mô lấy đi, tiết kiệm mô tái tạo để giữ tối đa hình dáng ngực cho người phụ nữ. Sau phẫu thuật bảo tồn có thể tạo hình để ngực có hình dạng tương đối so với ban đầu. Phẫu thuật bảo tồn được xem xét áp dụng cho bệnh nhân có kích thước khối u nhỏ (dưới 3cm) và nằm xa trung tâm.

Tuy nhiên, với các khối u to, sau khi hóa trị để thu nhỏ kích thước cũng có thể áp dụng phẫu thuật bảo tồn. 

Ngoài ra có thể vét hạch cửa đối với điều trị bệnh nhân ung thư vú để hạn chế ảnh hưởng gây phù tay do chèn ép, tàn phá mang lại.

Về xạ trị, hiện có xu thế xạ trị một phần (thay vì xạ trị toàn bộ). Đặc biệt trong giai đoạn sớm có thể áp dụng tia xạ điều biến liều tập trung vào khối u để giảm tác hại với tế bào lành.

Về điều trị hóa chất, hiện có nhiều loại hóa chất mới ra đời giảm tác động tiêu cực tới mô lành. Ngoài ra có thể phối hợp các hoạt chất có cơ chế khác nhau để cùng lúc đánh vào mô ung thư làm tăng hiệu quả điều trị.

Với điều trị nội tiết (nhánh 3) có thể sử dụng các kháng thể đơn dòng, đặc trị trong các trường hợp có yếu tố phát triển các mô dương tính, mang lại hiệu quả đột biến. Tuy nhiên, điểm hạn chế của các thuốc này là giá đắt, BHYT mới chi trả 40%.

Hiện nay, ung thư vú là bệnh phổ biến hàng đầu đối với phụ nữ tại VN. Nghiên cứu năm 2000 cho thấy tỉ lệ mắc ung thư vú chuẩn theo tuổi tại VN là 17,4/100.000 dân nhưng năm 2011 tỉ lệ này đã tăng lên mức 29,9/100.000 dân.

Cẩm Quyên