Mười sáu phi công gửi đơn khiếu nại lên Bộ chỉ huy xin không bay; 45 gia đình gửi thư chất vấn về trạng thái tinh thần phi công.

Mỗi chiếc B.52 sử dụng 6 nhân viên phi hành đoàn, gồm 1 lái chính, 1 phụ lái, 1 sỹ quan điện tử, 2 hoa tiêu và 1 hạ sỹ quan giữ súng máy ở cuối máy bay nhằm mục đích chống MIG truy đuổi khi đánh vào Hà Nội. Hà Nội tuyên bố bắt sống 30 giặc lái Mỹ, nhưng chưa từng tuyên bố bắt giữ đủ nguyên phi hành đoàn của một chiếc B.52 nào.

B.52, “con quái vật điện tử” được xem là “bất khả xâm phạm” rụng ngày một nhiều khi vào bầu trời miền Bắc Việt Nam.

Binh biến

Tạp chí Amed Forces Journal tường thuật: “Từ 22-24/12 (1972), tại các căn cứ B.52 tinh thần phi công khủng hoảng đến mức suy sụp. Trở về căn cứ họ bắt đầu đấu tranh đòi thay đổi chiến thuật đang sử dụng.

Một số phi công bịa ra, hoặc thổi phồng các lý do để biện bạch cho việc không hoàn thành nhiệm vụ (ném bom không chính xác). Một số nhân viên phi hành đoàn cáo ốm.

Các buổi thuyết trình về các phi vụ trong ngày trở thành cơ hội để các phi công tức giận, chế diễu, hoài nghi, thất vọng, mỉa mai hoặc cười hay nói kháy các sỹ quan điểm tin, các nhân viên của SAC (Bộ chỉ huy không quân chiến lược Hoa Kỳ - Strategic Air Command) vốn không chịu lắng nghe ý kiến phản đối của các phi công.

Các câu lạc bộ sỹ quan ở Guam, U-tapao là nơi để phi công thổ lộ các nỗi thất vọng và bực tức, vì con số thiệt hại ngày một tăng lên. Đầu tiên là 3 chiếc B.52, rồi 6 chiếc bị bắn rơi một ngày. Vậy mà SAC vẫn khăng khăng không chịu thay đổi chiến thuật.

Một số lớn phi công đã xin rút khỏi diện bay vì “lý do sức khỏe”. Các bác sĩ theo dõi phi công dùng chữ “binh biến” để mô tả tình hình ở 2 căn cứ. Một số phi công đã đi gặp nghị sĩ bảo trợ của họ hoặc không chịu bay. Người ta phải đưa ra tòa án binh xử một phi công đã tiếp xúc với giới báo chí rồi thải hồi anh ta để đe dọa”.

Phi công “bị đưa ra tòa án binh rồi thải hồi để đe dọa” mà Amed Forces Journal nhắc tới tên là Micheal Hayden. Nói với hãng tin Mỹ ngày 11/1/1973, Hếch khẳng định: “Không những riêng việc ném bom miền Bắc Việt Nam mà ngay cả ở miền Nam Việt Nam đã có đủ sự đau khổ để bênh vực việc chấm dứt chiến tranh. Việc ném bom ồ ạt miền Bắc là bước xô đẩy tôi vào vực thẳm…

Tôi đi đến chỗ nhận định rằng bất cứ cuộc chiến tranh nào (do Mỹ tiến hành) cũng gây ra tai họa to lớn hơn rất nhiều bất cứ vì lý do gì, ngay cả quyền tự quyết của Nam Việt Nam. Những mục tiêu ném bom là không biện bạch được cho việc hủy diệt và giết chóc hàng loạt. Việc đó chia rẽ đất nước chúng ta”.

Việc “hủy diệt và giết chóc hàng loạt” mà Hayden nhắc tới, được trung úy, phụ lái B.52 bị bắt ở Hà Nội xác nhận: “Không có lời nào tả được sự xúc động của tôi khi được đến tận nơi nhìn thấy cảnh tàn phá ấy. Nhiều thường dân đã chết. Từ khi bị bắt, tôi mới được biết rõ về người Việt Nam. Những cuộc ném bom chỉ làm rắn chắc thêm quyết tâm chiến đấu của họ”.

Còn trung tá William Conli, sỹ quan điều khiển điện tử B.52, cũng bị Hà Nội bắt sống, thừa nhận: “Tôi có thể khẳng định rằng nếu B.52 còn vào nữa thì còn bị bắn rơi nhiều nữa. Các ông chiến đấu dũng cảm, mưu trí, có chính nghĩa. Tôi tin chắc rằng nhất định các ông sẽ thắng vì lịch sử ở phía các ông, đạo lý ở phía các ông”.

Phi công Mỹ bị bắt trong chiến dịch Linerbacker 2. Ảnh tư liệu

Hoảng loạn

Trong khi đó, “ở sân bay U-tapao bên bờ biển Thái Lan, không khí bao trùm là lo lắng và sợ hãi. Từ đêm 18/12, Liên đoàn 307 chúng tôi ai nấy đều chán ngán. Không nói to, không cười đùa, không chạm cốc, mặc dù đó là ba điểm vốn rất quen thuộc của căn cứ. Không có một ai cười, dù sắp đến Noel và năm mới. Chưa bao giờ ở căn cứ này lại có không khí nặng nề đến như vậy.

Bởi vì, chúng tôi phải đi vào những nơi nguy hiểm nhất. Bởi vì, cứ thế này thì ai cũng sẽ đến lượt sẽ chết. Chết trong đêm tối. Chết bi thảm. Chết vì một mục đích không thể hiểu nổi”, đó là lời khai của John Harry Iunin, trung tá lái chính, chỉ huy một tổ B.52.

Iunin may mắn không chết, nên đã bị bắt, và được trao trả sau hiệp định Paris. Còn số phận nhiều người trong phi hành đoàn của anh ta thì không may mắn như vậy.

“Sân bay Andersen ở đảo Guam là căn cứ chính của Tập đoàn không quân số 8 thuộc Bộ chỉ huy không quân chiến lược. Tập đoàn này do tướng không quân Johnson chỉ huy.

Từ đêm 18/12, chúng tôi rất kinh ngạc vì phải đi ném bom vùng châu thổ Bắc Việt Nam. Chúng tôi hoàn toàn bất ngờ. Ai cũng lo, vì được biết, vùng đó được bảo vệ rất mạnh. Chúng tôi được biết rằng ngay từ chuyến đầu bay vào Hà Nội, nhiều máy bay B.52 bị bắn rơi, không trở về căn cứ.

Trước hôm tôi tham gia chuyến bay cuối cùng, trên báo quân đội Mỹ “Sao và vạch” có đưa tin một số B.52 đã bị bắn rơi từ 18 đến 24/12. Chuyến bay nào cũng có máy bay không trở về. Thật là đáng sợ!.

Không khí bao trùm căn cứ Andersen là căng thẳng. Không cười, không đùa, không nói to. Ai nấy đều lo lắng. Không khí căng thẳng này tăng lên từng ngày”, James Corden (38 tuổi), thiếu tá không quân hoa tiêu ra-đa B.52 khai với Hà Nội.

Trong một chuyến bay của B.52, người giữ vị trí hoa tiêu ra-đa là người phụ trách việc ném bom rải thảm, căn cứ vào những tọa độ đã đánh dấu sẵn trên bản đồ bay sau khi đã tính toán khớp với đường bay, hướng bay, vị trí đang bay bằng ra-đa. Vị trí này được gọi là nghề “bấm nút thả bom mà không cần quan sát mục tiêu”.

Còn thiếu tá hoa tiêu B.52 Richard E.Johnson, có 16 năm bay, với 6.000 giờ bay trên B.52, từng bay 250 phi vụ ở Lào và 250 phi vụ ở miền Nam Việt Nam, thú nhận: “Là một phi công đã hoạt động khá lâu ở Đông Nam Á, cho nên tôi đã được nghe kể nhiều về lưới lửa phòng không ghê gớm của Bắc Việt, nhất là ở khu vực châu thổ Sông Hồng. Kể ra, chỉ có một số ít bọn nhóc mới ra trường chẳng hiểu quái gì cả thì còn hung hăng đôi chút. Chứ lũ chúng tôi, càng lái nhiều càng lo…”.

Richard từng bay trên máy bay huấn luyện T.29 khoảng 200 giờ, sau đó chuyển sang loại ném bom hạng nặng B.47 khoảng 200 giờ nữa, rồi rốt cuộc chung thân với việc “chuyên môn cưỡi pháo đài bay B.52”, chuyến đầu tiên bay ra ném bom Hà Nội thì bị bắn rơi, bắt sống.

Đại úy, phi công Drenkowski, trong “Tấn bi kịch của Linebacker 2” (tạp chí “Quân lực Mỹ”) giải thích về sự sợ hãi leo thang này: “Đến 25/12, người ta ước tính tỷ lệ thiệt hại lên tới 10% hoặc 12% số 200 chiếc B.52 đang tham gia trận tập kích. Bạn đồng ngũ ra đi không quay lại. Số này ngày càng đông, tinh thần các nhân viên phi hành càng tan rã. Họ bắt đầu phản kháng không chịu bay, viện đủ cớ máy bay không được bảo quản kỹ, lý do sức khỏe và các lý do khác.

Những buổi giao nhiệm vụ bay trở thành các phiên họp căng thẳng. Hoa tiêu cáo bệnh, y sĩ nhận xét là các nhân viên phi hành nào cũng có lý do để khỏi phải bay. Ngồi đâu họ cũng châm biếm, chế nhạo, tỏ thái độ chán chường, thất vọng. Gặp sỹ quan tham mưu là họ vặn vẹo, gây sự.

16 phi công gửi đơn khiếu nại lên Bộ chỉ huy xin không bay. 45 gia đình gửi thư chất vấn về trạng thái tinh thần phi công. Họ gặp các hạ nghĩ sỹ đại biểu cho họ để thông báo sự tình bằng thư. Họ nhờ cả báo chí thông báo tình hình cho công luận. Ba phi công trong đó có đại úy Drenkowski phát đơn kiện Bộ chỉ huy Mỹ.

Bộ chỉ huy không quân phải quyết định dùng các B.52 ở Thái Lan tham gia chiến dịch Linebacker 2. Các kíp lái ở Guam quay sang ném bom ở Nam Việt Nam, đỡ nguy hiểm hơn. Đó là cách giải quyết lặng lẽ để đối phó với vấn đề tinh thần nghiêm trọng trong toàn bộ nhân viên phi hành ở các B.52D và gia đình họ.

Trước lễ Giáng sinh, ít nhất có 11 chiếc B.52 bị bắn rơi, nhiều chiếc khác bị thương.

Các máy bay B.52G dễ bị bắn rơi được điều đi ném bom Thái Nguyên và Hải Phòng. Tuy vậy, tên lửa Hà Nội vẫn bắn rơi 2 chiếc, một rơi ngay ở Hà Nội, một ở gần căn cứ U-tapao. Sở dĩ có sự thay đổi này không phải là do Bộ chỉ huy Mỹ đáp lại đề nghị của các phi công, mà là do 3 tướng Mỹ có trách nhiệm ngồi ở căn cứ nghĩ rằng “nếu để B.52 tổn thất ở mức này thì hai tuần sau sẽ không còn chiếc B.52 nào ở Đông Nam Á.

… Linebacker 2 là một chiến dịch do Nixon tiến hành đã buộc Hoa Kỳ phải trả giá đắt mà không đạt mục đích. Không quân Mỹ chỉ thông báo với báo chí là mất 17 chiếc B.52. Sau đó họ lại hạ mức xuống nói với Quốc hội là chỉ mất 13 chiếc, còn 9 chiếc khác về tới U-tapao nhưng bị hỏng nặng.

Nhân viên phi hành có cách đếm của họ. Đếm các kíp bay thiếu mặt bạn bè, họ tính ra là mất 27 chiếc B.52. Bắc Việt Nam nói họ bắn rơi 32 chiếc B.52. Nhân viên phi hành bảo nhau rằng: “17, 22 hay 32 thì chỉ có Chúa trời mới biết!”. Hẳn Chúa cũng biết tiếp sau chiến dịch ném bom tội lỗi đó thì ngày 29/3/1973 đã xảy ra cuộc tháo chạy của người Mỹ chúng ta khỏi Việt Nam.

Chỉ những nhân viên phi hành trên các B.52 thoát chết trong cuộc thiêu thân trước lưới lửa phòng không tại thung lũng sông Hồng mới thấy rõ chiến dịch Linebacker 2 là một chiến dịch thảm bại”.

(còn tiếp)