Có thể nói, mô hình tăng trưởng của Trung Quốc là một mô hình cũ, có nguồn gốc từ Hệ thống Mỹ (ban đầu gọi là Phương cách Mỹ, là một kế hoạch kinh tế đóng vai trò nổi bật trong chính sách Mỹ) những năm 1820-1830.

Bản thân "hệ thống" này chủ yếu dựa trên các công trình nghiên cứu của Bộ trường Tài chính đầu tiên của Mỹ, Alexander Hamilton, một con người đầy tài ba (đặc biệt nếu nhìn vào báo cáo Quốc hội của ông về ngành chế tạo và hai báo cáo khác về tín dụng công và ngân hàng).

Mô hình phát triển ấy cũng từng được tranh luận sôi nổi tại Pháp, dẫn tới một trong những cải tiến tài chính quan trọng nhất của thế kỷ 19, việc thành lập ngân hàng Crédit Mobilier tại Pháp vào năm 1852. Cuộc tranh luận này liên quan đến một trong những vấn đề kinh tế quan trọng nhất ở Pháp, đặc biệt từ sau thất bại của Napoleon: tại sao Anh, một quốc gia mà trước đó một trăm năm nghèo hơn Pháp nhiều lại, lại có thể vượt qua Pháp và tất cả các nước khác về cả kinh tế và công nghệ, mặc dù nếu chỉ nói riêng về khoa học và kỹ thuật, Pháp ít nhất không thua kém hoặc thậm chí vượt trội Anh?

Câu trả lời dễ nhận thấy nhất liên quan đến hoạt động tài trợ ứng dụng công nghệ mới trên quy mô thương mại. Hệ thống ngân hàng Pháp, bị chi phối bởi những người sống bằng lợi tức và tầng lớp quý tộc địa chủ, dường như chỉ chuyên tâm bảo vệ người gửi tiền tiết kiệm, một phần bằng cách huy động vốn và đầu tư vào vàng hay các giấy nợ chính phủ. Hệ thống ngân hàng Anh cũng hoạt động như vậy, nhưng họ sẵn dàng tài trợ cho các xây dựng cơ sở hạ tầng và hoạt động chế tạo hơn.

Ảnh minh họa

Như tôi đã lập luận, lý do chính các cuộc cách mạng công nghiệp diễn ra chủ yếu ở Anh và Mỹ là bởi vì cách mạng công nghiệp không phải do sự phát triển khoa học quyết định, mà đúng hơn là bởi việc áp dụng thương mại các tiến bộ khoa học. Để điều này xảy ra, có lẽ điều tối quan trọng là cần phải có một hệ thống tài chính tài trợ vững chắc. Anh, và sau đó là Mỹ, được hưởng lợi từ một hệ thống tài chính có phần nổi trội hơn các nước khác trong việc tài trợ cho cơ sở hạ tầng và các dự án đầu tư công nghệ mới.

Nói cách khác, một hệ thống tài chính hiệu quả, tức là phân phối được vốn cho các dự án đầu tư mới, điểm khác biệt chính giữa Anh và Pháp hồi cuối thế kỷ 19, và một số sử gia đã cho rằng nguyên nhân ở đây là con người tài giỏi nhưng thất thường là John Law và tác phẩm Bong bóng Mississippi của ông (ông tin rằng tiền là phương tiện trao đổi duy nhất không tạo ra của cải và sự tài sản của mội quốc gia phụ thuộc vào thương mại). Sự quan ngại về hệ thống ngân hàng thiếu hiệu quả ở Pháp đã dẫn tới việc thành lập Crédit Mobilier, với vai trò là phá vỡ những hạn chế đối với hệ thống tài chính do Rothschild thâu tóm đang tồn tại, huy động tiết kiệm của tầng lớp trung lưu, và phân bổ những khoản tiết kiệm này về hướng các dự án tài chính, như phát triển cơ sở hạ tầng, điều xét về dài hạn, sẽ dẫn tới tăng trưởng kinh tế cao hơn.

Vấn đề của hệ thống tài chính sẽ được bàn đến ở sau, nhưng điểm quan trọng ở đây là đã có rất nhiều phiên bản của mô hình tăng trưởng này, và ít nhất hai lý thuyết gia kinh tế lớn - một người Đức ở thế kỷ 19, Friedrich List, và một người Mỹ gốc Ukraina trong thế kỷ 20, Alexander Gershenkron - đã đi rất sâu miêu tả các biến dạng của mô hình tăng trưởng dựa vào đầu tư này. Michael Hudson, một nhà tư tưởng kinh tế đáng kính, cũng đã viết cuốn sách thông minh và gợi mở (Thương mại, phát triển và nợ nước ngoài), đi vào chi tiết nhiều khía cạnh của mô hình này trong các cuộc tranh luận tại Anh hồi cuối thế kỷ 18.

Ngoài Alexander Hamilton, cha đẻ về mặt tư duy và chính trị của Hệ thống Mỹ, những người ủng hộ chính cho mô hình này bao gồm các nhân vật như Henry Clay, Henry and Matthew Cary, John Calhoun, và thậm chí cả Abraham Lincoln. Tầm nhìn của họ về hoạt động ra quyết sách kinh tế bị đa phần các nhà kinh tế học Mỹ xem là ngây thơ và thậm chí ngớ ngẩn - thuộc trường phái Laissez-faire (Tự do Phóng nhiệm, Tự do kinh tế là một lý thuyết trong kinh tế học chủ trương chính phủ phải để cho kỹ nghệ trong nước được tự do hoạt động, mà không có những phương thức kiềm chế kinh tế như thuế má hoặc có những cơ sở độc quyền của chính phủ. Từ ngữ này trong tiếng Pháp có nghĩa là "để tự nhiên" hoặc "để tự do) khi đó đang thịnh hành ở Anh.

Ở nhiều quốc gia, giới học giả thực sự có ảnh hưởng tại thời điểm đó - Chile những năm 1860 dưới sự dìu dắt của nhà kinh tế học nổi tiếng người Pháp Jean Gustave Courcelle-Seneuil, hay Mexico ở thời điểm chuyển giao giữa hai thế kỷ dưới sự dẫn đường của José Y. Limantour, Bộ trưởng tài chính thời Tổng thống Porfirio Díaz.

Trở lại với câu chuyện chính, trong một cuốn sách hóm hỉnh và khiêu khích (Sự cất cánh của chủ nghĩa bảo hộ Mỹ, 181501914), Michael Hudson đã đề cập tới thành viên chủ đạo trong thế hệ thứ hai những người ủng hộ Hệ thống Mỹ, một cựu sinh viên Đại học Columbia có tên E. Pechine Smith. Điều đặc biệt thú vị về Smith trong bối cảnh của Trung Quốc là vào năm 1872, ông được mời tời Nhật Bản làm cố vấn cho Nhật hoàng, trở thành người đầu tiên trong rất nhiều các nhà kinh tế học và luật sư - đa phần là người ủng hộ Hệ thống Mỹ - đến cố vấn và trợ giúp xây dựng mô hình phát triển cho Nhật Bản thời kỳ Minh Trị Duy tân.

Smith do đó tạo ra một sự liên hệ trực tiếp giữa Hệ thống Mỹ với mô hình phát triển của Trung Quốc. Chính mô hình phát triển của Nhật Bản thời kỳ hậu chiến tranh, dựa trên kinh nghiệm phát triển của Nhật Bản trong và sau sau thời kỳ Minh Trị Duy tân, đã trở thành chuẩn mực đối với các nhà hoạch định chính sách ở khắp Đông Á và Trung Quốc. Mô hình tăng trưởng của Trung Quốc có thể xem là phiên bản mạnh mẽ hơn của mô hình tăng trưởng Nhật Bản hay mô hình tăng trưởng Đông Á, trong đó một phần dựa trên kinh nghiệm của Mỹ.

Có ba thành tố quan trọng của Hệ thống Mỹ, như sử gia Michael Lind, miêu tả bao gồm:

Thuế quan hộ trợ các ngành công nghiệp non trẻ

Cải thiện cơ sở hạ tầng trong nước, và

Một hệ thống tài chính quốc gia hợp lý.

Ba thành tố này ở vị trí trung tâm, dù công khai hay ngầm định, của mọi biến dạng của mô hình tăng trưởng nhờ xuất khẩu được nhiều quốc gia thế kỷ trước lựa chọn - với những điển hình là Đức những năm 1930, Liên Xô thời kỳ đầu chiến tranh lạnh, Brazil thời kỳ thần kỳ, Hàn Quốc sau chiến tranh Triều Tiên, Nhật Bản trước năm 1990, và Trung Quốc ngày nay. Do vậy, có lẽ với những quốc gia đang trăn trở về mô hình phát triển nhờ đầu tư, sẽ hợp lý  hơn nếu thảo luận chi tiết về ba thành tố này.

Trâm Anh theo mpettis

Còn tiếp

Tiêu đề do Tuần Việt Nam đặt