
>>"Gác tranh chấp, cùng phát triển" ở biển Đông có khả thi?
>>Trợ lí Ngoại trưởng Mỹ: COC và biển Đông nên mở cho bên ngoài
Ngày 13/6 vừa qua, ba thượng nghị sĩ Robert Menedrez (Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại Thượng viện), Ben Cardin và Marco Antonio Rubio (ứng cử viên tổng thống tiềm năng của đảng Cộng hòa) đã đệ trình dự thảo Nghị quyết S.RES.167: “Tiếp tục khẳng định sự ủng hộ mạnh mẽ của Mỹ về giải quyết hòa bình tranh chấp lãnh thổ, chủ quyền và quyền tài phán ở các vùng biển châu Á-Thái Bình Dương” lên Ủy ban Đối ngoại Thượng viện.
Bối cảnh mà bản dự thảo đưa ra là vì sự gia tăng gây hấn của Trung Quốc trên cả biển Đông và Hoa Đông với các động thái quân sự xâm phạm chủ quyền nguy hiểm, gây ảnh hưởng đến an ninh khu vực, đồng thời nhấn mạnh lại sự lo ngại của Mỹ mà người phát ngôn Bộ Ngoại giao Mỹ vào năm 2012 đã bày tỏ trước động thái nâng cấp quản lý thành phố Tam Sa của TQ và thiết lập đơn vị đồn trú mới tại vùng biển tranh chấp.
Tuy nhiên, nếu chỉ dừng ở việc thể hiện quan ngại và tiếp tục khẳng định sự ủng hộ của Mỹ thì dự thảo nghị quyết này sẽ không nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt của Philippines cũng như giới truyền thông, nhưng nếu đặt vào hoàn cảnh xuất hiện của nó, sẽ thấy rằng nếu được thông qua, bản dự thảo này sẽ là một bước phát triển lớn so với nghị quyết S.Res.524 được thượng viện Mỹ thông qua ngày 3/8/2012 về việc kêu gọi các bên liên quan tự kiềm chế, không làm phức tạp thêm tình hình và làm gia tăng xung đột tại các khu vực tranh chấp nóng bỏng hiện nay bao gồm cả việc đưa người ra những đảo, bãi đá, bãi cát ngầm hiện không có người ở.
Bản đề xuất Nghị quyết S.RES.167 được đệ trình chỉ vài ngày sau bài phát biểu của Trợ lý ngoại trưởng Mỹ Joseph Yun về việc khẳng định 6 điểm quan trọng trong chính sách của Hoa Kỳ đối với tranh chấp Biển Đông, trình bày tại hội thảo quốc tế về biển Đông do Viện nghiên cứu chiến lược và quốc tế (CSIS) tổ chức vào 5/6 vừa qua. Cả hai sự kiện này đều cho thấy ba sự khác biệt cơ bản trong cách tiếp cận của Mỹ đối với vấn đề biển Đông từ các cấp lãnh đạo nước Mỹ.
![]() |
|
Tàu chiến Mỹ tới Biển Đông. |
Thứ nhất, đó là về vấn đề xây dựng COC. Trong bản dự thảo S.RES.167 đã khẳng định ủng hộ việc xây dựng COC và kêu gọi sự hỗ trợ từ các nước đối với nỗ lực của ASEAN. Trong khi đó, trợ lý ngoại trưởng Mỹ thậm chí còn mô tả về các điều kiện cụ thể của việc xây dựng COC như là phải ràng buộc về pháp lý và tuân thủ luật pháp quốc tế dựa trên cơ sở của UNCLOS. Hơn nữa, ông còn đề cập đến hướng phát triển lâu dài của COC là đa phương hóa và mở rộng cho tất cả có liên quan lợi ích tại biển Đông, chứ không chỉ giới hạn giữa Trung Quốc và ASEAN.
Bên cạnh đó, trợ lý ngoại trưởng Mỹ cũng nhấn mạnh COC là một biện pháp dài hạn cần sự kiên nhẫn giữa các bên để có thể đàm phán một cách hiệu quả, tuy nhiên, việc duy trì đối thoại giữa các quốc gia trong giai đoạn đàm phán là rất cần thiết để giữ ổn định cho khu vực. Cách tiếp cận này của Mỹ đối với COC đã là một sự tiến triển đáng chú ý so với quan điểm trước đây của Mỹ là chỉ hỗ trợ để ASEAN và Trung Quốc tự đàm phán về COC.
Thứ hai, đó là quan điểm trung lập của Mỹ đối với tranh chấp biển Đông dường như đang chuyển đổi sang hướng thực tế hơn khi Mỹ công khai ủng hộ hành động đưa tranh chấp ra toà án quốc tế của Philippines và cho rằng các nước nên thúc đẩy hành động này. Trước đây, dường như Mỹ rất hạn chế đưa ra các tuyên bố thể hiện sự ủng hộ cho bất cứ quốc gia nào, trừ trường hợp của Nhật Bản trong tranh chấp Senkaku.
Việc Mỹ ủng hộ hành động của Philippines cho thấy rằng dường như Mỹ đang rất muốn các tranh chấp cần được giải quyết nhanh chóng, trong quá trình chờ đợi xây dựng một bộ quy tắc ứng xử trên biển Đông. Nhưng xa hơn, việc Mỹ ủng hộ đưa tranh chấp ra tòa án quốc tế còn có thể là một chỉ dấu về việc Mỹ sẽ gia nhập UNCLOS và thúc đẩy “thể chế hóa” biển Đông.
Thứ ba, chính là quan điểm của Mỹ về sự can thiệp vào khu vực khi trợ lý ngoại trưởng Mỹ nhấn mạnh rằng nhận thức về Biển Đông trong giới lãnh đạo Mỹ ngày càng tăng cũng như Mỹ đang can dự tích cực hơn đối với ASEAN. Trong khi đó, Dự thảo Nghị quyết 167 cũng khuyến khích chính phủ Mỹ nỗ lực xây dựng hợp tác với các nước trong khu vực trong lĩnh vực nhận thức hàng hải và xây dựng năng lực hàng hải. Ủng hộ quân đội Mỹ duy trì hoạt động ở Tây Thái Bình Dương. Hai tư tưởng này thể hiện rất rõ sự thay đổi lớn trong tư tưởng các lãnh đạo cao cấp của Mỹ khi nó đều nhấn mạnh về sự can thiệp sâu hơn và thúc đẩy tiến trình thay đổi bằng sức ép của Mỹ.
Quan trọng hơn, việc đề nghị Mỹ thúc đẩy hợp tác về nhận thức và năng lực hàng hải dường như là một biểu hiện rõ ràng của bước đầu xây dựng một liên minh hàng hải trên biển Đông, xa hơn có thể là một liên minh hợp tác an ninh – quốc phòng, vốn rất phù hợp với chiến lược “xoay trục” và kiềm chế Trung Quốc của Mỹ.
Cả ba sự thay đổi trên dường như không rõ ràng để nhận thấy, nhưng nếu nhìn nhận nó như các mảnh ghép trong bối cảnh khu vực thì nó đang thể hiện cho những tiến triển chiến lược trong chính sách đối ngoại Mỹ tại châu Á – Thái Bình Dương về việc Mỹ tăng cường can dự vào khu vực thông qua cả 3 mặt: chính trị - quân sự với chính sách “xoay trục”, luật pháp với sự ủng hộ COC mà xa hơn là UNCLOS, và kinh tế với quá trình đàm phán xây dựng Đối tác xuyên Thái Bình Dương TPP.
Tuy nhiên, có hai điều cũng cần lưu ý về những thay đổi này. Thứ nhất, đó là việc Mỹ trực tiếp đề nghị các biện pháp cho COC thông qua các phát biểu của Trợ lý ngoại trưởng cũng là một biểu hiện của sự suy giảm niềm tin với Bộ quy tắc này, bên cạnh đó, việc công khai ủng hộ đưa tranh chấp ra tòa án quốc tế và khuyến khích sự can dự mạnh mẽ hơn vào khu vực dường như được Mỹ xem là các biện pháp trực tiếp và mang lại hiệu quả nhanh hơn so với COC. Thứ hai, trong cả dự thảo Nghị quyết 167 và lời phát biểu của trợ lý ngoại trưởng Mỹ thì dường như không đưa ra bất cứ giải pháp hay cam kết can thiệp trực tiếp nào, mà chỉ thể hiện quan điểm gây sức ép và hỗ trợ thúc đẩy mạnh mẽ hơn. Vì vậy, có lẽ phải cần đến một thời gian nữa để có thể nhìn nhận về sự thay đổi chiến lược của Mỹ một cách rõ ràng hơn.
Vũ Thành Công (Irys)
