
LTS: Tuần Việt Nam giới thiệu bài tham luận của GS Peter Dutton, Giám đốc Viện nghiên cứu hàng hải Trung Quốc, thuộc Học viện Hải quân Mỹ (US Naval War College) tại Hội thảo quốc tế: “Kiểm soát căng thẳng tại Biển Đông” do CSIS tổ chức tại Washington DC tháng 6/2013.
Luật pháp quốc tế có vai trò gì trong việc kiểm soát tranh chấp ở Biển Đông? Câu hỏi này có hai mặt. Một mặt là liệu luật pháp, nói một cách khách quan, có thể đóng vai trò gì để kiểm soát tranh chấp ở Biển Đông?
Khía cạnh thứ hai của câu hỏi này là các bên tham gia tranh chấp, nói một cách chủ quan có thể cho phép luật pháp đóng vai trò gì trong kiểm soát các tranh chấp tương tự? Hơn nữa, cần lưu ý rằng thực sự có 3 dạng tranh chấp đang tồn tại ở Biển Đông: tranh chấp chủ quyền, tranh chấp nguồn tài nguyên và tranh chấp mức độ kiểm soát ở các vùng biển xa bờ - theo đó, vai trò chủ quan và khách quan của luật pháp sẽ khác nhau. Để đơn giản hóa, tôi sẽ giới hạn phân tích của mình đối với trường hợp của Trung Quốc và Philippines và chỉ tập trung vào vai trò của Công ước Luật biển LHQ (UNCLOS) như một nguồn ổn định quan trọng giữa những phức tạp của các tranh chấp ở Biển Đông.
Luật pháp có thể đóng vai trò gì?
Sức mạnh quan trọng nhất của luật pháp quốc tế - đặc biệt là các công ước quốc tế là khả năng thiết lập các chuẩn mực ứng xử trong cộng đồng các quốc gia có chủ quyền. Sức mạnh chuẩn mực này của luật pháp quốc tế không nên bị xem thường vì nó có khả năng định hình và dẫn dắt hành vi của các quốc gia hướng đến sự ổn định và có thể dự đoán trước. Tranh chấp hàng hải nói riêng đã được hưởng lợi từ Công ước LHQ về Luật Biển. Một khía cạnh chuẩn mực quan trọng của UNCLOS là quy định giới hạn chủ quyền toàn bộ của một quốc gia trong khu vực lãnh hải 12 hải lý và đặc quyền kinh tế 200 hải lý.
![]() |
Trước khi các cuộc đàm phán quốc tế đi đến hoàn tất bằng một văn bản pháp lý vào năm 1982, các tuyên bố chủ quyền thường phản ánh một mớ hổ lốn các cách tiếp cận khác nhau. Thậm chí cho tới trước năm 1996 khi UNCLOS có hiệu lực, vẫn còn có tới 13 quốc gia tuyên bố chủ quyền toàn bộ đối với vùng biển 200 hải lý. Đến năm 2008, sức mạnh chuẩn mực của UNCLOS đã giảm con số quốc gia này xuống còn 7.
Hiện nay, 6 trong số 7 quốc gia còn lại này đã tham gia UNCLOS mà theo Điều 3 đương nhiên họ chỉ có chủ quyền toàn bộ đối với lãnh hải 12 hải lý. Bởi vậy, trên phạm vi toàn cầu, số quốc gia vẫn nằm ngoài phạm vi điều chỉnh của UNCLOS và tiếp tục tuyên bố chủ quyền lãnh hải 200 hải lý thực tế chỉ còn lại một là Peru.
Ở Đông Á, hiện cũng tồn tại một kiểu mẫu phù hợp với các chuẩn mực do UNCLOS xác lập theo nhiều cách thức khác nhau. Trong trường hợp của Trung Quốc, nước này duy trì nhiều tuyên bố đường cơ sở quá lớn và không phù hợp với quy chuẩn, một tuyên bố mập mờ về quyền lịch sử và các quyền khác trong đường 9 đoạn vốn không có một cơ sở pháp lý nào nếu chiếu theo UNCLOS. Trung Quốc cũng là nước dẫn đầu trong một nhóm nhỏ các quốc gia duyên hải giữ quan điểm không theo chuẩn về các hoạt động quân sự nước ngoài trong vùng đặc quyền kinh tế.
Các tin bài báo chí gần đây về hoạt động của hải quân Trung Quốc ở khu vực đặc quyền kinh tế của Nhật Bản và Hoa Kỳ cho thấy rằng có lẽ có hơn một cách để quan điểm của Trung Quốc về luật phát quốc tế sẽ hội nhập với trào lưu chung. Tuy nhiên, ngay cả với những thiếu sót hiện tại, cả Trung Quốc và Việt Nam đều là các bên tham gia UNCLOS và đã du nhập nhiều điều khoản khác của bộ luật này vào luật quốc nội của họ, cũng như đóng vai trò tích cực trong các tổ chức do Công ước này thành lập nhằm thúc đẩy luật biển quốc tế.
Vậy ở điểm nào thì sức mạnh chuẩn mực của bộ luật có thể bị phá vỡ? Việc tuân thủ không đầy đủ của Trung Quốc và qua đó họ muốn mở rộng khả năng kiểm soát duyên hải của mình dường như xuất phát từ niềm tin là một số khía cạnh của UNCLOS không phục vụ cho lợi ích thiết thân của họ.
Đối với Trung Quốc, liệu điều này sẽ thay đổi khi cảm thức của người Trung Quốc về vị thế thấp kém phai mờ dần đi? Các cuộc tập trận hải quân và thu thập thông tin tình báo của Trung Quốc gần Guam, Hawaii và Nhật Bản cho thấy rằng viễn cảnh đó là khả thi.
Philippines là một minh chứng hoàn hảo của một quốc gia đã chọn cách tuân thủ toàn diện các điều khoản và yêu cầu của UNCLOS như một cách để cải thiện vị thế sức mạnh của họ trong mối tương quan với các yêu sách biển. Bằng việc làm như vậy, nước này đã khai thác luật pháp quốc tế để mở rộng và tăng cường khả năng bảo vệ các lợi ích quốc gia cốt lõi của mình. Trước năm 2008, Philippines là nạn nhân của cách diễn dịch chủ quyền kế thừa từ thời kỳ thuộc địa hàng thế kỷ trước, vốn không phù hợp với luật pháp quốc tế hiện hành nhưng lại được hiến pháp hóa và do đó rất khó thay đổi.Tuy nhiên, đến mùa xuân năm 2009, chính phủ Philippines đã tìm được ý chí chính trị đủ mạnh để vứt bỏ những đòi hỏi chủ quyền phi chuẩn mực dựa trên những tàn tích lịch sử và đưa mọi khía cạnh trong luật quốc nội trở nên tương thích toàn diện với UNCLOS. Do hầu hết các đòi hỏi chủ quyền biển của nước này xung đột với đòi hỏi của Trung Quốc và Việt Nam, bằng việc làm như vậy Philippines đã nêu gương cho những người láng giếng mạnh hơn mình.
Bởi vậy, một cách khách quan luật pháp quốc tế có sức mạnh để điều chỉnh hành vi của các quốc gia theo những cách thức sẽ đóng góp tích cực cho ổn định toàn cầu. Và luật pháp quốc tế đã phát huy được ảnh hưởng tích cực này ở Đông Á thông qua cơ chế của UNCLOS. Tuy nhiên, một cách chủ quan thì các quốc gia dường như vẫn tiếp tục lựa chọn xa rời các chuẩn mực pháp lý khi mà họ nhận thấy những chuẩn mực đó không đủ để bảo vệ lợi ích sống còn của họ và khi họ đủ sức mạnh để bảo vệ mình khỏi những hậu quả của việc bất tuân luật lệ.
Do đó, có một mối dây liên kết không thể tháo gỡ giữa sức mạnh và luật pháp. Các cường quốc thường có động cơ để tuân thủ các chuẩn mực luật pháp bởi những chuẩn mực này đa phần do họ tạo ra và để nhằm phục vụ lợi ích của họ. Những nước tương đối yếu cũng có động lực để tuân thủ các chuẩn mực pháp lý như một cách thức hợp tác với hệ thống và tối đa hóa lợi ích từ đó.
Thế nhưng, các quốc gia trung bình hay mới nổi lại có ít động cơ để hợp tác toàn diện với luật. Họ có thể tuân thủ luật ở những điểm mà luật pháp phục vụ cho lợi ích cốt lõi của họ và dùng sức mạnh để xa rời luật ở những nơi mà lợi ích cốt lõi của họ sẽ được bảo vệ tốt hơn nếu làm thế. Nói cách khác, luật pháp có thể đóng một vai trò tích cực trong việc thúc đẩy các quốc gia tuân thủ chặt chẽ hơn các chuẩn mực quốc tế nhưng vai trò đó chỉ được phát huy khi các quốc gia nhận thấy việc tuân thủ luật sẽ thúc đẩy lợi ích trọng yếu của mình hoặc chí ít không cản trở nó.
GS Peter Dutton
