
Trong vòng bốn năm, những kỳ nghỉ duy nhất của ông là những chuyến về thăm cha mẹ già và những người trong gia đình khác ở Bắc Carolina. Ông làm việc hằng ngày (kể cả trong ngày Lễ tạ ơn vừa qua, khi ông dàn xếp các khoản cho vay hoán đổi cho châu Âu) và mỗi sáng trong tuần đều có mặt ở văn phòng.
Mankiw nói có một sự gián đoạn kỳ lạ giữa uy tín của vị chủ tịch trong giới chuyên gia, những người hầu hết đều nể phục ông, và sự không hài lòng của công chúng. Đồng nghiệp nói về sự can đảm và tháo vát của ông. Larry Summers, nguyên cố vấn kinh tế của Tổng thống Obama, người nổi tiếng với chiếc lưỡi cay độc, nói với tôi rằng trong số những người nắm tình hình nội bộ của Washington, "tôi không nghĩ có ai không ưa ông". Ngay cả một số người phê bình ông, nếu xét kỹ hơn, đều không đến nỗi phê phán ông thậm tệ. Kevin Hassett, một nhà kinh tế học bảo thủ từng giúp tổ chức bức thư công khai tháng 11/2010 để phản đối việc nới lỏng định lượng, cho tôi biết, mặc dù ông không đồng tình với Bernanke về chương trình nới lỏng, nhưng nhìn chung "tôi thấy không ai có thể làm tốt hơn ông". Về suy nghĩ của ông đối với cuộc công kích của một số người Cộng hòa, Hassett bổ sung, "tôi không biết làm sao mà bạn lại có thể cay ghét ông được".
Ben Shalom Bernanke là con trai của một dược sĩ ở Dillon, Nam Carolina, một thành phố 6.800 dân (con số hiện nay). Ông nghiên cứu về Suy thoái khi còn đang học thạc sĩ tại trường MIT, và sự nghiệp học thuật ban đầu của ông đã được nhiều người biết đến khi ông tiếp tục phát triển lịch sử tiền tệ cổ điển của Milton Friedmen. Theo Friedman, sự thất bại của Fed trong những năm 1930 là vấn đề họ không in đủ tiền. Bernanke suy luận rằng thất bại thực sự khi đó đã khiến hệ thống ngân hang tự phá vỡ. "Điều Bernanke phát hiện ra là không phải khối lượng tiền tệ, mà vì các ngân hàng đã ngừng cho vay", Stanley Fischer, người hướng dẫn luận án của Bernanke tại MIT và hiện là thống đốc Ngân hàng Trung ương Israel, nói. "Còn hơn cả sự suy giảm về tiền tệ, nó là sự sụp đổ của tín dụng". Hàm ý cần rút ra là việc điều tiết các ngân hàng trong hoàn cảnh thuận lợi - và nếu cần, giải cứu họ vào những lúc khó khăn - là điều có ý nghĩa tối quan trọng mà Bernanke sẽ ghi nhớ trong cuộc khủng hoảng 2007-2009.
Tại Princeton, Bernanke trở thành học giả tiền tệ hàng đầu của nước Mỹ. Đầu tiên, ông tham gia Fed, với vai trò thống đốc, vào năm 2002, và ngay cả khi đó, với ông, Đại suy thoái vẫn là một bài học sống động. Vài tháng sau khi đảm nhận chức vụ thống đốc, ông có bài phát biểu tại Hội các nhà kinh tế quốc gia (Mỹ) về nguy cơ xảy ra cuộc sụp đổ kiểu những năm 1930. Vấn đề cụ thể của những năm 1930 là giảm phát: hàng hóa mất dần đi giá trị sau mỗi năm - hay nói cách khác, đồng đôla Mỹ liên tục mạnh lên. Trái ngược với hình ảnh của lạm phát, khi xảy ra giảm phát, sẽ không ai chi tiêu, bởi giá thấp sẽ xuống thấp mãi, và sẽ không ai vay tiền, bởi họ sẽ phải hoàn trả nợ bằng những đồng đôla có giá trị hơn về sau này. Ngân hàng trung ương đã cắt giảm lãi suất nhằm khuyến khích vay tiền và chi tiêu, nhưng sau đó cũng mất luôn cơ hội sử dụng các phương thức thực nghiệm khác để kích thích kinh tế. Sản xuất và việc làm tiếp tục đi xuống theo chiều xoáy trôn ốc; Keynes gọi đây là "bẫy thanh khoản".
Năm 2002, trong cuộc thảo luận với Hội các nhà kinh tế quốc gia, khi nền kinh tế chạm đáy sau cuộc khủng hoảng dot-com, Bernanke đã nói đến khả năng xảy ra chu kỳ giảm phát và suy thoái nghiêm trọng mới. Nên tránh giảm phát ở mọi thời điểm, ông nói, bởi nếu đã diễn ra, Cục dự trữ Liên bang sẽ bất lực trong cuộc chiến với nó. Ông đã kê ra một số "đơn thuốc" khả thi, như mua trái phiếu dài hạn và các chứng khoán bảo đảm bằng thế chấp của các cơ quan chính phủ. Và trong trường hợp mọi phương pháp khác đều thất bại, Fed có thể kích thích chi tiêu bằng cách phương thức "ném tiền xuống từ máy bay". ( Bernanke nói, Friedman từng hài hước đề nghị thả những tờ giấy bạc từ trên trời rơi xuống, mà điều này Fed hoàn toàn có thể làm được trong thực tế bằng cách in tiền để bù vào khoản thuế cắt giảm). Bernanke quay trở lại với chủ đề này trong hai bài diễn văn tiếp theo vào năm 2003. Rõ ràng, giảm phát và khủng hoảng luôn ở trong tâm trí ông.
Nhưng trong khi Bernanke nhận ra mối nguy cơ đó trên lý thuyết, ông lại không lường trước được sự sụp đổ sắp xảy ra với giá nhà đất. Quả vậy, ông cho rằng các ngân hàng trung ương, trong đó có Fed, đã khống chế được tính cực đoan của chu kỳ kinh tế. Năm 2005, trong bài phát biểu tại St. Louis, ông đã giải thích đầy thuyết phục tại sao vốn từ Trung Quốc và các quốc gia khác đang chảy vào thị trường bất động sản Mỹ và tạo áp lực tăng giá trên thị trường bất động sản trong nước. Ông không tỏ ra quan ngại. Năm sau, năm bong bóng nhà đất thổi phồng hết cỡ, ông trở thành chủ tịch Fed.
Năm 2007, khi cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp dưới chuẩn ngấm vào thị trường tài chính, những kiến thức của Bernanke đã khiến ông thất bại. Là một học giả, ông nghiên cứu vì sao sự thất bại của ngân hàng có thể làm trầm trọng thêm cuộc Đại suy thoái; là chủ tịch của Fed, ông đã không giám sát các ngân hàng đủ kỹ lưỡng - nghĩa là ông bỏ qua thực tế rằng các chứng khoán bảo đảm bằng thế chấp chiếm một phần lớn trong tài sản của các ngân hàng lớn nhất. "Rủi ro tập trung ở những nhà trung gian tài chính chủ chốt", ông nói với tôi. "Nó dẫn tới sự hoảng loạn và tháo chạy. Đó là điều khiến tất cả trở nên tồi tệ đến vậy".
![]() |
Có một lý do nữa đằng sau cách hiểu chưa sâu sắc của ông khi đó, theo tôi nghĩ là: Bernanke có lòng tin của một học sĩ vào tính hợp lý thiết yếu của thị trường. Ông hoài nghi về khái niệm sự điên rồ của thị trường đại chúng đến mức trong một bài viết nghiên cứu, ông đã nhắc đến từ bong bóng trong ngoặc kép. Giống như Greenspan, ông không phản đối về mặt tư tưởng đối với sự can thiệp của chính phủ, nhưng ông cũng nghi ngờ việc ai có thể nhận ra, ngay lập tức, khi nào thị trường bắt đầu có vấn đề.
Ngoài những điều đáng trách này, cũng cần lưu ý rằng quả bóng đã phình to dần trong gần như cả nhiệm kỳ của Greenspan. Thời điểm có thể tránh một sự sụp đổ là khi các tài sản thế chấp bắt đầu được đém bán, hay khi ngân hàng vẫn có thể bán tài sản mà không gây hoảng loạn; vào lúc Bernanke xuất hiện, khủng hoảng có lẽ đã đến độ không thể tránh khỏi. Và thế là, đến năm 2008, Bernanke phải đối diện với chính kiểu khủng hoảng ngân hàng mà ông đã dành cả cuộc đời học thuật của mình để nghiên cứu. Không ai phù hợp với công việc này hơn ông; thực tế, Fed đã chọn đến từng loại thuốc những đơn thuốc mà Bernanke "kê ra" trong bài phát biểu năm 2002.
Trong cuộc thảo luận giữa hai chúng tôi, Bernanke khẳng định các gói giải cứu ngân hàng là cần thiết, nhưng ông lại tỏ ra rất không ưa dùng - "Điều đó không bao giờ được phép xảy ra lần nữa", ông ngắt lời khi tôi nhắc đến AIG, công ty bảo hiểm khổng lồ với những hành động cẩu thả mà ông vẫn phê bình. Theo Luật Dự trữ Liên bang, Fed có quyền cung cấp những khoản cho vay "trong tình huống bất thường và cấp thiết" miễn là các khoản cho vay "đảm bảo thỏa mãn các Ngân hàng Dự trữ Liên bang", nghĩa là chừng nào Fed còn không muốn bất cứ sự mất mát nào. Nhưng công bằng mà nói, khi khủng hoảng xuống quá sâu, một số khoản cho vay khẩn cấp của Fed đã vi phạm tuyên bố chính thức này. Khả năng thanh toán của các tổ chức như AIG và Bank of America bị nghi ngờ. Nhưng khả năng thanh toán của một ngân hàng có thể bản thân nó lại phụ thuộc vào sự sẵn sàng can thiệp của Fed. Brian Madigan, cựu quan chức cấp cao của Fed, đã đưa ra lập luận như vậy ngay sau cuộc khủng hoảng, và cũng viết rằng các nguyên tắc của Bagehot "cần được giải thích và áp dụng vào thế giới thực". Có thể hiểu rằng ông đang nói bênh vực vị chủ tịch. Khi hệ thống tài chính đang mấp mé bờ vực sụp đổ, các gói giải cứu dù sao vẫn là con quỷ hiền hơn trong hai con quỷ.
Ngay cả các nhà kinh tế xu hướng cánh hữu cùng hầu như đều cho Bernanke điểm cộng với những hành động của ông trong thời kỳ hoảng loạn tài chính. Làn khói "chiến tranh" dày đặc, và ông đã cố gắng tránh để mất tiền của người đóng thuế. Nhưng trong giai đoạn thứ hai - nhằm vực dậy nền kinh tế, và cải thiện tỷ lệ thất nghiệp - ông đã nhận được phản ứng giận dữ của các nhà tư tưởng từ cả hai phía. Ngay cả Ủy ban Thị trường mở của Fed, nhóm những người hoạch định chính sách lãi suất, cũng mỗi người một ý. Trong thời kỳ của Greenspan, đặc biệt là khi ảnh hưởng của vị chủ tịch tăng lên, cơ quan này nói với một giọng điệu chung, tàn thành mọi điều ngài chủ tịch muốn. Ủy ban của Bernanke là một mớ hỗn độn tiền tệ - phần vì ông sẵn sàng lắng nghe ý kiến trái chiều, và phần vì quan điểm còn chia rẽ sâu sắc. Trong khi Greenspan chỉ phải nhận một lá phiếu bất đồng ở đâu đó, Bernanke lại phải lĩnh tới 32 lá phiếu này, bao gồm ba người bất đồng chỉ trong riêng một cuộc họp. Điều này chưa từng xảy ra trong suốt 20 năm trước đó.
Hầu hết những người bất đồng với Bernanke là cánh diều hâu, trừ Charles Evans, chủ tịch Ngân hàng Dự trữ Liên bang Bank of Chicago, Cục dự trữ Liên bang, đã hai lần không đồng quan điểm vì ông nghĩ Fed nên sẵn sàng chấp nhận mức lạm phát cao hơn cho tới khi thị trường việc làm phục hồi trở lại. Janet Yellen, phó chủ tịch Fed, và William Dudley, chủ tịch Fed New York, cũng đang ngả theo hướng tăng kích thích. Chưa từng có lãnh đạo Fed nào trước đó phải đương đầu với sự chia rẽ nội bộ như vậy.
Tình thế khó khăn của Bernanke xuất phát từ thực tế, khác với các ngân hàng trung ương trên thế giới, Fed nhận được sự ủy quyền kép - theo luật pháp, nó có trách nhiệm "thúc đẩy việc làm tối đa" đồng thời đảm bảo "giá cả ổn định". Ngân hàng Trung ương châu Âu, ngược lại, chỉ có nhiệm vụ quan tâm tới lạm phát. Đó là lý do tại sao Ngân hàng Trung ương châu Âu lại hai lần nâng lãi suất trong năm 2011, khi châu Âu tiến dần đến miệng hố khủng hoảng và đứng trước nguy cơ vỡ nợ.
Nguyên nhân hình thành của Liên minh châu Âu là siêu lạm phát ở Đức những năm 1920, điều mà từ đó đã thôi thúc các ngân hàng trung ương Lục địa già luôn chống lại việc in thêm tiền. Ở Frankfurt, khái niệm "người cho vay cuối cùng", trước này vẫn không được ưa chuộng. Với Cục Dự trữ liên bang Mỹ, nguyên nhân thành lập là một loạt những cuộc khủng hoảng bắt đầu từ thế kỷ 19 và tích tụ lại trong cuộc Đại suy thoái. Sau sự giải thể ngân hàng của chủ tịch Biddle vào những năm 1930, "tiền" ở Mỹ bao gồm tất cả các giấy bạc mà các ngân hàng in ấn và người dân đồng ý nắm giữ. Ngay cả sau nội chiến, khi tiền được đồng nhất, nó cũng thường là một thứ hàng hóa khan hiếm, và những hoảng loạn trong hệ thống ngân hàng cũng thường xuyên xảy ra.
Fed được thành lập năm 1913, như một tấm lưới chặn của hệ thống tài chính. "In tiền" - lời cáo buộc mà Rick Perry nhằm vào Bernanke - là một phần chức năng của ngân hàng từ khi sinh ra. Tiền vẫn bao gồm các giấy bạc ngân hàng, chỉ khác là hiện giờ ngân hàng đó có tên là Cục dự trữ Liên bang. Fed dường như đã hoàn thành lời hứa trong thế chiến thứ nhất, bơm hàng trăm triệu đôla khẩn cấp vào hệ thống tài chính. Trong Đại suy thoái, vì những lý do mà cho tới nay còn gây tranh cãi, nó đã thất bại. Bernanke rõ ràng đã muốn tránh cái sai lầm lớn nhất mà các ngân hàng châu Âu đã phạm phải trong giai đoạn Đại suy thoái. Thế nhưng, thất nghiệp vẫn cao, đặt ra câu hỏi cho một số nhà kinh tế học, đặc biệt thuộc phe cánh tả, về việc Fed đã hoàn thành nhiệm vụ hay chưa.
Bernanke chủ yếu vẫn khống chế lạm phát ở quanh mức 2% một năm, cũng là mức ông muốn duy trì - không quá cao đến mức đe dọa thổi bùng lạm phát, nhưng đủ để tạo một vùng đệm giúp các nhà hoạch định chính sách có thể phản ứng nếu lạm phát có dấu hiệu đi xuống và nguy cơ dẫn tới giảm phát. Krugman và nhiều người khác cho rằng Fed nên khuyến khích tăng lạm phát lên cao hơn để giải quyết dứt điểm vấn đề thất nghiệp cao. Lý do này có thể hiểu ở một số cấp độ. Dĩ nhiên, in tiền không tạo ra việc làm. Nhưng do lương khó có thể bị hạ xuống, nên giá hàng hóa cao hơn có thể giúp giới chủ có đủ tiền để thuê lao động. Đơn cử, khi tình hình trở nên khó khăn, McDonald không ngần ngại hạ giá bán bánh hamburger, nhưng cũng khó có thể giảm tiền lương. Thay vào đó, họ thuê ít lao động hơn (đó là lý do tại sao nền kinh tế đã mất tới 8,5 triệu việc làm trong giai đoạn suy thoái). Lạm phát là một cách cắt giảm chi phí lương khó nhìn thấy rõ hơn. Người lao động nghĩ họ vẫn kiếm đượng ra ngần ấy tiền, nhưng do đồng USD mất giá, chủ thuê lao động có thể dễ dàng xoay xở lương cho họ hơn.
Cách thứ hai lạm phát có thể có ích cho nền kinh tế là nó khiến cho việc vay mượn và chi tiêu trở nên hấp dẫn hơn (người đi vay có thể hoàn trả nợ bằng những đồng đôla rẻ hơn). Cũng với lý do này, lạm phát cũng đem lại lợi ích cho những người vốn đang mắc nợ - chẳng hạn như những người đi vay thế chấp. Bằng cách thúc đẩy nhanh quá trình giảm nợ của các hộ gia đình Mỹ, lạm phát có thể gỡ khó cho thị trường nhà đất và đưa Mỹ nhanh chóng trở lại với kiểu chi tiêu và lao động bình thường hơn. Kenneth Rogoff, một chuyên gia kinh tế của Harvard và từng có thời gian công tác tại Fed, đã đề nghị Bernanke cố gắng nâng mức lạm phát lên trong ngưỡng từ 4%-6%.
Nhưng cũng có nhiều lý do cho thấy cần phải thận trọng với những "đơn thuốc" này. Cũng giống như khi lạm phát đem lại lợi ích cho người đi vay, nó lại gây thiệt hại cho người chủ cho vay. Ngân hàng và người nắm giữ trái phiếu có cảm giác bị lừa bởi tiền cho vay của họ được trả lại bằng những đồng tiền có giá trị thấp hơn. Tương tự, những người có tiền tiết kiệm cố định, như người về hưu, cũng chịu tình cảnh chung với tiền tiết kiệm của họ. Tổng thống Grover Cleveland (1837 - 1908), một "chiến sĩ" trong cuộc chiến chống lạm phát (ở thời của ông, lạm phát xảy ra do giá bạc giảm nhanh), đã miêu tả, đó giống như một việc dâng tiền cho kẻ trộm. Dĩ nhiên, có người cũng được lợi từ kẻ trộm này - ở thời của Cleveland, là những nông dân khi giá nông phẩm cao hơn; còn ở thời điểm hiện nay, đó là những người thất nghiệp. Lạm phát khó có thể gây ra thất nghiệp, mà giúp tạo ra một sự đánh đổi, dẫn tới kẻ thắng và người thua. Nhưng sự đánh đổi này chỉ mang tính tạm thời. Cuối cùng, lương cũng bắt kịp với việc in tiền. Đến khi nền kinh tế đã vận hành với đúng tiềm năng, thì việc thả tiền từ trên trời xuống sẽ không tạo thêm được việc làm. Nó sẽ chỉ gây lạm phát.
- Còn tiếp
- Đình Ngân dịch theo The atlantic
