Bernanke đã cân nhắc kỹ lưỡng về lập luận của Krugman-Rogoff. Trên thực tế tồn tại một khó khăn. Chính sách của Fed có hiệu quả một phần nhờ cách họ để cho thị trường làm những công việc của Fed (nếu Fed mua trái phiếu, các nhà kinh doanh cũng muốn làm điều tương tự với tư cách là bộ phận của thị trường mua lại trái phiếu giống các ngân hàng trung ương). 

Kỳ 1, Kỳ 2, Kỳ 3

Nhưng bất kỳ chính sách nào được lựa chọn bởi ít hơn tỷ lệ đa số 7/3 trong Ủy ban Thị tường mở của Fed sẽ không được thị trường coi là một chính sách tốt, có khả năng kéo dài, và Bernanke rất khó đảm bảo giành được tỷ lệ cao vào hoàn cảnh hiện nay. "Không ngân hàng trung ương nào sẽ làm như vậy", Mankiw nói về việc nâng mức mục tiêu lạm phát;  phản ứng chính trị sẽ trở nên rất nghiêm trọng. Khi Mankiw, một nhà kinh tế học của Harvard, viết một loạt bài đặt ra khả năng nâng mức mục tiêu lạm phát, Drew Faust, chủ tịch của trường đại học này, đã nhận được không ít đơn thư yêu cầu cách chức Mankiw).

Điều này có vẻ đã khẳng định luận đề của Krugman rằng Bernanke muốn lạm phát tăng, nhưng ông lại quá thận trọng. Nhưng sau khi nói chuyện một hồi với vị chủ tịch (nhìn chung ông không muốn được tôi trích dẫn những gì ông nói về vấn đề này), tôi nghĩ rằng, mặc dù Bernanke tôn trọng những lập luận của giới nghiên cứu về nâng mức lạm phát, ông lại thấy hợp lý hơn nếu không làm như vậy. Thứ nhất, ông lo lạm phát một khi đã tăng lên, khó có thể kiềm chế lại. Fed tạo ra lạm phát bằng cách bơm thêm tiền dự trữ vào hệ thống ngân hàng (lãi suất giảm là cách giúp thị trường tăng lượng tiền tệ). Nếu quá nhiều tiền đổ vào hệ thống, đến mức lương và giá cả đều đồng loạt tăng, đà tăng này sẽ có thể tự tồn tại. Bernanke nói với tôi: "Quan niệm rằng chúng ta có thể nâng mức lạm phát một cách an toàn và sau đó kiểm soát nó, rất cần được xem xét lại".

Thứ hai, nâng mức lạm phát cũng không hề dễ dàng. Lạm phát không phải cho phép tăng thì sẽ tăng - theo chỉ dụ của ngân hàng trung ương. Mà thay vào đó, Fed còn phải thuyết phục hàng triệu người dân chi tiêu nhiều hơn và hàng chục nghìn doanh nghiệp nâng giá sản phẩm. Và lạm phát sẽ không tăng nếu người dân nghĩ việc nới lỏng tiền tệ chỉ mang tính tạm thời. Tiền từ tín dụng, và vay mượn phụ thuộc vào kỳ vọng tương lai. Theo lý thuyết, thị trường xác lập mức lãi suất dài hạn để phản ánh tổng mức lãi suất ngắn hạn kỳ vọng trong tương lai. Vì thế biện pháp để giảm lãi suất dài hạn là phải thuyết phục người dân rằng lãi suất ngắn hạn (do Fed kiểm soát) sẽ duy trì ở mức thấp trong vô thời hạn. Như Bernanke hiểu rõ, vấn đề này tạo ra vô khối câu chuyện, mà nội dung chính trong đó là Fed sẽ phải đích thân tự nhận mình là "vô trách nhiệm". Nói cách khác, Fed sẽ phải nói, "ngay cả khi giá cả bắt đầu tăng, ngay cả khi lạm phát bắt đầu vượt ra khỏi tầm kiểm soát, chúng tôi sẽ vẫn giữ lãi suất ở mức gần bằng không". Đó là điều đã gây ra lạm phát của những năm 1970: người dân nghĩ lạm phát sẽ tăng mãi, và tinh thần đi vay để chi tiêu càng trở nên ăn sâu. Nếu Bernanke phải tạo ra cái bầu không khí đó một lần nữa, sẽ rất khó để chặn nó lại.

Theo tôi hiểu, Bernanke là một ông chủ ngân hàng quá tỉnh táo nên không muốn liều lĩnh với uy tín của Fed trong vấn đề lạm phát. Quan điểm của ông thể hiện một sự khác biệt với các đồng nghiệp học giả, bởi vì, trong thế giới như các học giả thiên tả miêu tả, nâng mức lạm phát là điều duy nhất có thể phát huy tác dụng khi nền kinh tế có xu hướng đông cứng. Bernanke nghĩ ông có nhiều công cụ khác. Đầu tiên, dĩ nhiên, là nới lỏng định lượng. Thay vì hạ mức kỳ vọng lãi suất ngắn hạn, chính là cách mà Fed hay vận dụng, ông tiến hành nới lỏng định lượng, bao gồm sự can thiệp trực tiếp vào lĩnh vực thị trường tín dụng dài hạn.

Bằng việc mua lại các chứng khoán dài hạn, Fed muốn giảm chi phí thế chấp, nợ doanh nghiệp... Tác động tới lãi suất dài hạn là một động thái tất yếu, bởi lãi suất ngắn hạn vốn đã gần bằng không. Nhưng nới lỏng định lượng có tạo ra nhiều ảnh hưởng hay không còn đang được tranh cãi.Chính sách rõ ràng đã hiệu quả trong giai đoạn đầu cuộc khủng hoảng cho vay thế chấp, khi nó giúp chống đông cứng thị trường tín dụng, cho chép các doanh nghiệp và cá nhân tiếp tục vay tiền. Tuy nhiên, ngay cả những người ủng hộ Bernanke cũng thừa nhận rằng kể từ khi những thị trường này hoạt động trở lại, việc tiếp tục mua trái phiếu dài hạn chỉ mang lại những kết quả khiêm tốn. Mark Gertler, một nhà kinh tế học tại Đại học New York và cũng là bạn của Bernanke, nói, đợt nới lỏng định lượng lần hai có thể chỉ làm cho mũi kim dịch chuyển chỉ chừng ¼ điểm phần trăm. Nhưng ông cũng đánh giá cao chính sách bởi nó giúp duy trì lạm phát không rơi xuống mức thấp nguy hiểm - "một thành tựu không hề nhỏ". Fed dường như cũng đã đẩy nhanh những đột biến về giá vàng, giá dầu và các hàng hóa khác vào năm ngoái. Và điều đó, với những người bảo thủ, chính là vấn đề.


Những chỉ trích từ phe hữu là tiếp tục các biện pháp kích thích kinh tế vừa không cần thiết, do khủng hoảng tài chính đã qua rồi, vừa gây ra lạm phát. Allan Meltzer, một nhà kinh tế học và sử gia của Fed, nói Bernanke đang cố gắng làm những gì vượt quá khả năng của ông. "Thất nghiệp cao hiện nay không phải do vấn đề tiền tệ", Meltzer nói, nghĩa là Mỹ đã vượt qua điểm mà việc tiếp tục cắt giảm lãi suất sẽ kích thích doanh nghiệp tuyển người. Bernanke liên tục bị đổ lỗi là đã thử nghiệm quá nhiều biện pháp khắc phục thiếu hiệu quả, mang lại quá ít thành công. Có lẽ, ông sẽ nhận lỗi trong vấn đề này. Ông nói ông ngưỡng mộ cách tiếp cận toàn diện của Franklin Roosevelt trong cuộc chiến chống Đại suy thoái, một cuộc chiến không mang tính lý tưởng như nhiệt huyết của những con người nhiệt tình. Nhiều người lo ngại bảng quyết toán của Fed, 2,9 nghìn tỷ USD, là một dạng củi mồi gây lạm phát mà một ngày nào đó sẽ bắt lửa.

Cơ chế đánh lửa như sau: mỗi lần Fed mua một chứng khoán kho bạc hay trái phiếu đảm bảo bằng thế chấp, nó sẽ công nhận ngân hàng bán với một khoảng dự trữ bằng lượng tiền đó. Dự trữ ngân hàng tồn tại dưới những ký hiệu điện tử, nhưng chúng đại diện cho tiền thật sẵn có để cho vay, và phần lớn số tiền đó nhàn rỗi vào hôm nay, một phần vì nhu cầu cho vay yếu. Hiện tại, nếu ngân hàng phải cho vay toàn bộ số dự trữ dôi dư, dưới dạng tiền mặt, cung tiền sẽ gần như tăng gấp ba chỉ sau một đêm, và giá chiếc bánh burger sẽ chắc chắn cũng như vậy. Và nếu Fed gặp phải sự công kích dữ dội và chọn hấp thụ hết hết số dự trữ dôi dư này bằng cách bán nhanh các tài sản của mình, dòng lũ sẽ tràn vào thị trường, khiến lãi suất tăng cao và làm tiêu tan sự phục hồi.

Bernanke đã nghĩ về điều này - thực tế, ông đã nghĩ làm sao thoát khỏi cuộc nới lỏng định lượng gần như ngay từ ngày ông bắt đầu đưa ra. Năm 2008, khi đề nghị và nhận được đặc quyền của Quốc hội, thanh toán lãi số tiền dự trữ cho các ngân hàng. Hiện nay, mức lãi suất đó là 0,25%. Nhưng có thể nói, nhu cầu cho vay tăng lên (như đã diễn ra gần đây dù chậm) - và do đó các ngân hàng có thể làm ăn có lãi với mức lãi suất cao hơn. Fed sẽ được quyền tự do nâng mức lãi suất, kích thích việc cho vay mới bằng cách khuyến khích ngân hàng giữ lại số tiền dự trữ nhàn rỗi của họ tại Fed. Theo cách nói đơn giản của tiếng Anh, Bernanke dự định trao thưởng cho các ngân hàng giữ được một số tiền trong ngân quỹ, thứ sẽ cho ông thời gian dần điều chỉnh lại bảng quyết toán. Không ai biết liệu canh bạc này có thể có tác dụng hay không.

Tuy nhiên, Fed luôn gặp phải thách thức khi thắt chặt tín dụng sau giai đoạn nới lỏng. Việc Fed tích lũy trái phiếu dài hạn hơn là ngắn hạn là một sự đổi mới tương đối "lành tính", ít nguy hiểm hơn nhiều nhà phân tích nhận định. Cho tới nay, cánh diều hâu vẫn nhìn nhận lạm phát từ mọi góc độ. Cho tới nay, họ vẫn sai và Bernanke vẫn đúng. Lý do những người chỉ trích không ưa nới lỏng định lượng, theo tôi nghĩ, không liên quan mấy tới cơ chế của dự trữ ngân hàng mà có liên hệ mật thiết hơn đến nỗi luyến tiếc một Cục dự trữ liên bang thận trọng, và mang tính truyền thống hơn. Những người phê bình nới lỏng định lượng muốn Fed nhỏ hơn và không vươn quá xa. Họ muốn người tiêu dùng giảm nợ nần, hạn chế vay mượn và chi tiêu nhiều, và họ sợ nới lỏng định lượng sẽ tạo ra một bóng bóng tiêu dùng mới. Bernanke, thực tế, dễ dãi ở điểm này; ông phát biểu trước Quốc hội hồi tháng 2, "Chính sách thuế và tiêu dùng của đất nước chúng ta nên tăng cường khuyến khích lao động và tiết kiệm", nhưng lãi suất gần bằng không của ông rõ ràng đã hạn chế người dân gửi tiền tiết kiệm.

Việc mua các chứng khoản bảm đảm bằng thế chấp của Fed gây tranh cãi còn vì một lý do khác. Những người phê bình cho rằng đó là những khoản mua ngoài thẩm quyền quy định của Fed. Bernanke hy vọng những lần mua như vậy sẽ giúp hạ mức lãi suất thế chấp, khôi phục lại ngành nhà đất và tạo việc làm trong ngành xây dựng. Nhưng bất kỳ khoản đầu tư chính phủ nào phục vụ ngành nhà đất cũng chắc chắn sẽ gây bất lợi cho ngành khoa học vũ trụ, bán lẽ và bất kỳ ngành nào khác không liên quan đến nhà đất. Jeffrey Lacker, vị chủ tịch diều hâu của Ngân hàng dự trữ liên bang Richmond, nói đây là một cách phân bổ tín dụng, chứ không phải là chính sách tiền tệ. Fed, ông lo ngại, đang quá hiệp đồng với giới điều hành doanh nghiệp. And Warsh, cựu thống đốc của Fed, người là đồng minh mạnh mẽ, nếu không nói là hay tranh cãi, của Bernanke trong suốt cuộc khủng hoảng, nói Fed không nên là "xưởng sửa chữa" cho những chính sách tài khóa thất bại, một cánh tay phụ của một quốc hội bất lực. Warsh nói với tôi, sự can thiệp liên tục của Fed đã làm mờ đi bảng điều khiển và che khuất các tín hiệu của khu vực tư nhân. "Chúng ta đã cố làm giả sự phục hồi của thị trường nhà đất trong bốn năm rưỡi qua", ông nói, nghĩa là mỗi lần mua chứng khoán của Fed lại nâng thị trường lên trên mức vốn có của nó.

Theo lối suy nghĩ này, những vụ phá sản và tịch thu tài sản đóng vai trò phục hồi - trả lại tài sản cho thị trường vừa mới hết nợ và định giá hợp lý. Lý do này có một sức lôi cuốn đầy cảm xúc - và gần như mang tính tôn giáo, xu hướng giảm giá tài sản là một hình thức chuộc lỗi của thị trường. Bernanke bắt gặp ý tưởng này hồi tháng 11, khi ông tới thăm các gia đình binh lính ở Fort Bliss, El Paso. Một phụ nữ hỏi ông "liệu chúng ta có nên tìm cách đưa chúng ta trở lại nơi chúng ta từng trải qua... khi nói đến việc người dân đã sống, mua nhà, tiến kiệm và đầu tư như thế nào?". Vị chủ tịch nín thở và thừa nhận "đó là một câu hỏi rất sâu sắc". Câu trả lời của ông đã thể hiện như vậy. Trong khi nhấn mạnh ông không muốn quay trở lại với việc nhà đất bị định giá quá cao và tiêu chuẩn thế chấp nỏng lẻo, ông nói thêm, "Tôi không tin vào lý thuyết của Kinh Cựu ước về chu kỳ kinh doanh. Tôi nghĩ, nếu chúng tôi có thể giúp người dân, chúng tôi cần phải giúp họ".

Tôi đã thuyết phục ông đi sâu hơn trong một cuộc phỏng vấn, ông nói: "Có một luận điểm cho rằng cách duy nhất để khôi phục nền kinh tế là thanh lọc những thứ dư thừa trước đó. Tôi không nói rằng chẳng có sự mất cân bằng nào nên được điều chỉnh. Nghĩa là, chính sách vẫn cần cải thiện ảnh hưởng của những sự tái cân bằng cần thiết đối với công chúng, để giúp rút ngắn lại thời gian suy thoái. Một sự suy giảm mạnh số lượng việc làm sẽ làm chậm lại quá trình tái cân bằng và giảm nợ hơn là tăng tốc quá trình ấy; người dân không có thu nhập để thu xếp nợ nần. Do vậy, lý do ở đây là: nếu bạn có thể, hãy cố gắng rút ngắn lại quá trình bằng cách thôi thúc các ngân hàng chấp nhận chịu đựng và điều chỉnh, tái cơ cấu vốn. Rõ ràng, bạn cần làm sao để bảng cân đối kế toán của ngân hàng lành mạnh, và người tiêu dùng cá nhân lành mạnh - nhưng việc để hệ thống mắc két trong mức thất nghiệp cao cùng tỷ lệ phá sản và tịch thu tài sản cao là một cách phi hiệu quả để đạt được điều đó".

Bernanke bảo thủ hơn những nhà phê bình Cộng hòa tưởng, nhưng như trong một tuyên bố công khai, ông nhận thấy việc để hàng triệu người tiếp tục thất nghiệp là "không thể chấp nhận được". Ông đặc biệt lo ngại về việc nhiều người đã mất việc quá sáu tháng. Giống như Franklin D. Roosevelt, ông sẵn sàng thử nghiệm những gì hiệu quả, hay có thể phát huy tác dụng, và điều này dẫn ông đến sự mâu thuẫn với các nhà kinh tế học thuần túy. Ông không thấy bằng chứng của lạm phát, nhưng ông thấy những khó khăn kinh tế, và do đó những khó khăn này nhận được nhiều quan tâm hơn. Mặc dù ông thừa nhận tiềm tàng nguy cơ lạm phát, ông vẫn nói với chương trình 60 Minutes hồi tháng 12/2010 rằng ông "chắc chắn 100%" về khả năng kiểm soát lạm phát của mình (một sự chắc chắn đầy ngạc nhiên và gây khó chịu đối với một một ông chủ ngân hàng vốn hay khiêm nhường này). Khi tôi đưa ra lý lẽ rằng việc mua các tài sản bảo đảm bằng thế chấp - ngoại trừ ảnh hưởng gây lạm phát - sẽ dẫn tới sự phân bổ tín dụng không hợp lý. Bernanke nhíu mày mệt mỏi, như thể các điểm tốt của lý thuyết tiền tệ như thể đã rõ rành sai về thất nghiệp. "Tôi sẽ nói rằng các tài sản bảo đảm bằng thế chấp chúng tôi mua vào có thể sẽ đưa thị trường dịch chuyển gần hơn chứ không phải xa hơn đến tình trạng hiệu quả", ông trả lời tôi.

Ngoài sự can thiệp trực tiếp vào thị trường, Bernanke còn đang cố gắng truyền tải ý định duy trì mức lãi suất thấp của Fed và công khai các tình huống sẽ khiến Fed phải nâng lãi suất. Cuối năm ngoái, Ủy ban của Fed, cơ quan đã ấn định mức lãi suất ngắn hạn một cách nhanh chóng, đã đi tiếp một bước nhỏ khi tuyên bố sẽ công khai không chỉ mức lãi suất hiện hành, mà còn cả những kỳ vọng lãi suất tương lai của các ngân hàng thành viên. Rồi đến tháng Giêng năm nay, lo lắng trước nguy cơ nền kinh tế lại bị kéo lùi trở lại từ những nguyên do bắt nguồn từ châu Âu, thậm chí là đã có những mầm mống xuất hiện ở Mỹ, Ủy ban này đã quyết định có một bước đi lớn. Mặc dù trước đó dự báo lãi suất sẽ giữ ở mức gần bằng không đến giữa năm 2013, hiện tại cơ quan này lại dự báo lãi suất sẽ duy trì thấp cho tới cuối năm 2014. Điều quan trọng là, Bernanke nói ông có thể sống chung với việc lạm phát tăng lên một chút trong thời gian ngắn nếu nó giúp giảm tỷ lệ thất nghiệp. "Chúng tôi không phải là những người theo chính thể chuyên chế", ông nói trong một cuộc họp báo, nghe có vẻ rất giống như một người hâm mộ Roosevelt. Tuần sau đó, khi Bernanke trả lời chất vấn tại Đồi Capital, Paul Ryan, Chủ tịch Hội đồng Ngân sách Quốc hội, gây sức ép với Bernanke: "Dường như ông đang rời xa mục tiêu lạm phát... mà Fed sẵn sàng chấp nhận mức lạm phát cao hơn để theo đuổi nghĩa vụ về việc làm". Bernanke phủ nhận điều này. Hai phần trăm vẫn là mục tiêu, ông nói, nhưng đó là mục tiêu trung hạn. "Chính sách tiền tệ hoạt động với một độ trễ. Chúng ta không thể đạt được nó hằng ngày, hằng tuần, nhưng trong một giai đoạn chúng tôi muốn đưa lạm phát luôn quay trở lại mức 2%. Chúng tôi sẽ không chủ động nâng mức lạm phát". Từ trước đến nay, chưa bao giờ có vị lãnh đạo Fed nào công khai về mục tiêu lạm phát của mình đến thế.

Sự đề cao tính minh bạch của Bernanke dựa trên quan điểm gần gũi với các nhà kinh tế học tài chính rằng con người điều chỉnh một cách có lý chí hành vi của họ tương ứng với các kỳ vọng; do vậy, dự báo của Fed về kết quả thị trường có thể giúp đạt được như vậy. Lý thuyết này có thể đúng một phần, và chưa thể gọi là hoàn thiện. Trước hết, người dân không phải lúc nào cũng phản ứng lại trước các thông tin bằng lý trí. Thứ hai, Fed chưa bao giờ giỏi dự báo tình hình nền kinh tế, do vậy công chúng thường không đánh giá cao các dự báo của cơ quan này và những kỳ vọng chính sách xuất phát từ đó. Dự báo của Bernanke trong tháng Giêng rằng nền kinh tế sẽ vẫn yếu, và cần giai đoạn hồi sức kéo dài, có thể không có cơ sở. Ngay cả khi ông mới đây đã hiểu được thấu đáo hơn, thì nhiệm kỳ của ông cũng sẽ hết hạn vào tháng 1/2014; thị trường khó có thể sẽ đánh giá cao khả năng dự báo chính sách của ông trong năm sau khi ông thôi giữ chức vụ. (Dù có thể tổng thống Obama, nếu tái đắc cử, sẽ vẫn bổ nhiệm ông làm nhiệm kỳ thứ ba).

Tháng Giêng, Fed cũng cho biết sẽ xem xét tiếp tục mua trái phiếu nếu quá trình phục hồi mất dần động lực. Triển vọng đó sẽ là chủ để tranh cãi gay gắt trong giới am hiểu về tiền tệ, nhưng phải thừa nhận rằng, nhìn chung, những lần nới lỏng định lượng mới đang mất dần tính hiệu quả. Đợt tiếp theo, nếu xảy ra, sẽ có khả năng không tạo ra nhiều ảnh hưởng. Tóm lại, ngay cả một Bernanke giàu sức tưởng tượng và sáng tạo cũng gần như đã cạn kiệt các lựa chọn. Thế nhưng, tín dụng vẫn đang chảy; tiền ngắn và dài hạn đều rẻ; và nền kinh tế đang cải thiện. Blanchard, chuyên gia tư vấn kinh tế của IMF, người đã cùng học với Bernanke tại MIT, mới đây đã nói với tôi, "Tôi nghĩ ông ấy đã làm những gì có thể, đủ để có thể gọi là tốt".

Quan niệm của Bernanke về công việc của một người điều hành ngân hàng trung ương, Blanchard chỉ ra, đã đầy đủ và toàn diện hơn của những người đồng nghiệp của ông ở châu Âu. Thực tế, Ngân hàng Trung ương châu Âu mới đây đã bắt đầu học tập cách tiếp cận của Fed để đối phó với cuộc khủng hoảng của chính mình. Đến giữa mùa đông, thất nghiệp của Mỹ đã giảm xuống mức thấp nhất kể từ sau khi kết thúc suy thoái. Gần như chắc chắn vào thời điểm Bernanke rời nhiệm sở, tình hình ở Mỹ sẽ tốt hơn ở Lục địa già.

Cuối cùng, di sản của Bernanke sẽ phụ thuộc vào việc ông có thể hoàn toàn thoát khỏi cuộc tranh luận về thế chấp mà không để lại một cuộc tranh cãi mới hay thổi bùng ngọn lửa lạm phát khi nó vượt ra khỏi tầm kiểm soát hay không. Alan Greenspan về hưu giống như vị hoàng tử của ngân hàng trung ương, nhưng uy tính của ông đã giảm sút nhanh chóng do bong bóng xì hơi trong nhiệm kỳ của Bernanke. Khi còn đảm đương chức vụ, Paul Volcker đặc biệt gây nhiều tranh cãi bởi các chính sách diều hâu của ông; nhưng hiện tại, ông thực tế gần như đã được phong thánh.

Vincent Reinhart, người từng làm việc dưới thời Greenspan và Bernanke với vai trò là trợ lý tiền tệ cấp cao và hiện đã về hưu, cho rằng tôi đang viết về Bernanke sớm 5 năm. Chắc chắn, không ai biết lạm phát hay thất nghiệp sẽ như thế nào trong 5 năm nữa. Thay vì dự đoán đoán, tôi muốn nhắc lại lời khen của Hank Paulson,  cựu Bộ trưởng Tài chính, người mới đây đã nói với tôi: "Tôi không biết người ta kỳ vọng Ben sẽ làm những gì. Với tôi, điều ông làm được là điều khá ấn tượng. Ai đoán được khi nào ông đến Washington chúng ta lại may mắn đến vậy khi có một người sẵn lòng nghĩ khác đi và đối phó với cuộc khủng hoảng chưa từng có này?"

Những sự chỉ trích bên trong nội bộ khó có thể hiểu được, nhưng đó là một phần mặt trái của niềm tin phổ biến rằng chúng ta đã mong muốn có một Cụ dự trữ Liên bang hiện đại. Vào thời điểm Nicholas Biddle, và ngay cả trong những năm Fed mới thành lập, giấy bạc ngân hàng, nghĩa là các giấy tờ nợ, có thể được hoàn trả lại lấy thứ gì đó có giá trị, thường là vàng. Hiện tại, đồng đôla chỉ có thể đổi được lấy đồng đôla. Đó là những gì sẽ gây báo động những người theo quan điểm nguyên gốc.

Những người theo quan điểm nguyên gốc không hài lòng với nới lỏng định lượng cũng không vui vẻ với đồng tiền co giãn và với chính đồng bạc giấy; không thứ gì khác, ngoài vàng có thể làm họ hài lòng được. Dĩ nhiên, điều này đã đúng trong 40 năm qua, kể từ khi Mỹ rút khỏi chế độ bản vị vàng - nhưng chỉ Bernanke phải triển khai mạnh mẽ như vậy những nhiệm vụ nguyên gốc của Fed là "người cho vay cuối cùng" và "người tạo ra đồng tiền co giãn". Và ông đã ở đó, trên một chiếc máy bay, ném những đồng tiền xuống. Đây là điều đáng ra Fed đã nên làm vào năm 1933. Tuy nhiên, dù người Mỹ có đang cảm thấy nhẹ nhàn hơn, nhưng thực tế cũng gợi ra trong họ một sự băn khoăn, âu lo rằng chỉ riêng một tiến sĩ hay một nhóm các có thể tìm ra được bí mật về một cung tiền hợp lý hay không, đặc biệt trong nền kinh tế năng động như của Mỹ hiện nay.

Bernanke không sử dụng vàng làm một thước đo; ông không lấy tiền trong lưu thông làm cơ sở quyết định lãi suất, như Volcker đã làm, hay thử làm. Người thầy của ông, Milton Friedman, suy nghĩ việc điều chỉnh lãi suất là việc hết sức nan giải, nhưng tốt hơn hết vẫn là tạo ra nhiều việc làm thay vì chiếc máy tính hơn. Nhưng Bernanke tin con người có thể tìm ra được bí mật đó. Ông bám chặt khái niệm về lạm phát và dự đoán sẽ nó hướng đến đâu, tin tưởng vào đánh giá của mình sẽ cho ông biết khi nào nên tăng hay giảm tính thanh khoản. Và xa hơn những gì ông được công nhận hôm nay, lịch sử có thể sẽ lưu mãi thành công của Bernanke.

Đình Ngân dịch từ theatlantic