
Hòa bình cả ba tháng trời gia đình tôi mới nhận được thư của chú ruột tôi, chú Thanh, đi B dài từ năm 1971. Bác tôi vốn ít nói, chỉ ngồi rít thuốc lào sòng sọc, khuya trăng gà gật rồi vẫn ngồi bất động bên thềm nhà. Bố tôi hay đùa vui, lại thường tin vào linh cảm rằng, sớm muộn thì chú tôi cũng về, nên cứ kể toàn chuyện trạng khi cả xóm ngồi bên ấm chè xanh.
Lá thư vỏn vẹn mấy dòng, đại loại là em vẫn khỏe, công tác tốt, có thể sẽ lấy vợ trong Nam, kính chúc các anh và gia đình sức khỏe, chào thân ái và thắng lợi...
Mẹ tôi đọc xong, nói lẩy " Chú ấy không hỏi chi đến chị ?". Bố tôi phân bua " Thì chú ấy chúc cả gia đình là trong đó có cả mẹ thằng Cu, bộ đội có thời gian mô mà cà kê riềng tỏi"
Mấy tháng sau nữa chú tôi mới về. Chỉ một balô con cóc và người đầy vết thương. Chú vẫn tếu táo như hồi chưa đi bộ đội. " Em về, không mang được gì vì còn đau, chỉ mang trong người mấy miểng đạn chưa gắp được.. .". Rồi chú bỗng trầm ngâm: "Cùng đi một đợt, cùng huấn luyện Lục quân, cùng thiếu úy, giờ đui què mẻ sứt thì em cũng còn vác được " gáo" về xin cơm anh chị và các cháu. Thằng Siêm còn nằm trong mịt mù không biết khi mô đưa được về quê?"...Chú khoát tay, đi bộ mấy năm ròng rã mà chưa thể nói đã tới chiến trường hay chưa? Bom, đạn, sốt rét níu chân níu cẳng, tư tưởng sợ khó sợ khổ làm cho dốc núi cheo leo, suối sâu sông thẳm. Từ miền Bắc theo đường Trường Sơn qua Lào, qua Miên, lọt vào vùng sau lưng địch, xuất phát 10 rồi cứ rơi rụng, bổ sung, lại thiếu, cuối cùng may lắm chỉ còn 2, 3. Thì đó, còn mình thì thiếu thằng Siêm...
![]() |
| Ảnh minh họa |
Tôi nhớ lần chú cưới vợ, bác và bố tôi vào rồi ra sớm hơn dự tính. Hỏi, bố tôi nói tránh, ở vào đâu mà lâu với mau với lại mùa cày cấy đến rồi, lâu răng được. Sau này tôi vào thăm chú mới biết, hóa ra trong đó, nhà cửa quen tuềnh toàng, lá dừa lá mía vậy thôi, không chắc bền lo xa như vùng bão vùng lũ. Nhưng tình cảm thì vô bờ bến. Chú tôi nói là chú học cái thiệt tình, không khoa trương, khách sáo của người miền Tây. Ăn hết nhiều, còn ở hết nhiêu đâu...
Là nói cho vui cửa vui nhà, chứ sau hòa bình mấy chục năm, tôi biết chú tôi chẳng có gì đáng đồng tiền bát gạo. Nuôi một đàn bò. Trồng ít khóm thanh long. Vợ chú chạy chợ từ một hai giờ sáng, mua cá dưới cảng về bán trên chợ ấp, mỗi chuyến lời dăm chục nghìn. Chiếc xe Cup 50 lộc xộc xích nhão, bể ướm chạy nặng nề, chậm rù. Sao mà chú tôi vẫn cứ cười vang. Và hỏi khi mô về quê, chú lại chậm rãi nói, để chú tính, chờ con bò mẹ đẻ con bò con, tao nuôi lớn, nó lại đẻ con bò cháu, lại nuôi lớn thêm...
Có lần tôi nói, cháu quen nhiều người cấp to ở tỉnh này, chú cần nói chi không? Chú tôi nghiêm mặt, thôi cháu, chú sống đến hôm nay là của cải nhà ta đây rồi, chạy vạy cũng không giàu có thêm được. Chú sống ngày nào là lãi ngày đó. Nếu xin được thì xin cho con thằng Siêm một việc gì đó, bố nó hy sinh, mẹ nó lấy chồng..Chú khổ một chút, vợ con chú thiếu thốn một chút cũng cố chịu, nhưng để con thằng Siêm khổ, chú không đành. Cháu thử nghĩ xem, dung dăng bồng bế nhau về quê, con thằng Siêm đầu tắt mặt tối, mình ăn sao hết bát cơm, ngủ nhắm mắt sao được. Chú và thằng Siêm vào đến đây, tưởng cái chết chừa ra, ai ngờ nó không tránh được. Bây giờ bỏ nó, bỏ con nó, khác chi chú là thằng đào ngũ, tuột xích, sống sờ sờ đây mà vô ích, mà giá trị không hơn cái thứ bốn cẳng đang nhai lại ngoài kia...
Hòa bình đã gần bốn chục năm, gia đình tổ chức lên lão bảy mươi mừng ông hôm mồng 5 Tết. Ông vẫn cứ dây dưa chuyện về quê, thỉnh thoảng lại alo vài câu ngắn gọn kiểu con nhà lính, như lá thư đầu tiên đầy thân ái và thắng lợi mà mẹ tôi có ý trách xa trách gần người em chồng dạo ấy.
Bùi Nam Sơn
