Tất cả các quốc gia tiến hành trao đổi thương mại và buôn bán trên biển đều có lợi ích trong việc đảm bảo tự do hàng hải tại biển Đông.

Gần 1/3 tàu thương mại thế giới được chuyển qua đại hải trình này, đưa tài nguyên thiên nhiên và hàng hóa thành phẩm đến với những người mua trên toàn khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Tàu thương mại sẽ phải chịu các mức giá nhiên liệu và bảo dưỡng cao nếu buộc phải đi vòng tránh điểm nút giao thông quan trọng này.

Bất chấp các lợi ích chung đó, Mỹ đang phải đối mặt với những chướng ngại lớn trong quá tình xây dựng một liên minh biển quốc tế trong khu vực. Thách thức đối với Mỹ là thống nhất các quốc gia giao thương trên biển chống lại các mối đe dọa khó vượt qua. Khác với các mối đe dọa trước đây mà Nhật Bản, Mỹ và Liên Xô đặt ra, các thành viên liên minh sẽ không phải đối mặt với cái mà Tôn Tử gọi là "mảnh đất chết", trong đó các lợi ích sống còn và cả sự sống sót đều bị đe dọa.

Hơn nữa, Mỹ phải xây dựng một liên minh như thế trong bối cảnh khó khăn về kinh tế, cộng thêm ngân sách ngày càng bị thắt chặt. Tình huống này dẫn tới hậu quả là vị thế lãnh đạo trong các liên minh và quan hệ đồng minh chủ yếu có chức năng đóng góp sức lực và tiền của nhiều nhất. Trong Đại liên minh thời chiến tranh thế giới II, chẳng hạn, sự ảnh hưởng được dồn vào Anh và Mỹ vì nền công nghiệp Mỹ sản xuất hàng loạt nguyên liệu tạo ra chiến tranh. Ngày nay điều ngược lại đang diễn ra. Washington đang cố gắng dẫn dắt các liên minh trong khi khả năng này của họ đang giảm dần.

Hợp tác trên biển hiện là câu thần chú của chính sách Mỹ nhằm đảm bảo tự do đi lại trên biển thế giới. Vì các lực lượng trên biển - Hải quân, Lính thủy đánh bộ và Lực lượng bảo vệ bờ biển Mỹ - nhận ra rằng ngân sách giảm hoặc được duy trì, chi phí đóng tàu tăng cao và cấu trúc lực lượng giảm là những yếu tố đang kìm hãm các lựa chọn của họ, nên họ phải kêu gọi sự hỗ trợ từ các đối tác bản địa để bảo vệ các hải trình tránh khỏi chủ nghĩa khủng bố, hải tặc, phổ biến vũ khí và các dạng buôn lậu khác. Hạm đội của Mỹ, hiện vẫn hùng mạnh nhất thế giới, nhưng nay đã trở nên quá nhỏ và quá hạn chế trong việc bảo vệ các vùng biển chung chống lại các mối đe dọa đối với các hải trình quan trọng. Biển Đông, nằm ở chỗ giao nhau giữa hai đại dương và cho phép các lực lượng Mỹ di chuyển nhanh chóng giữa hai đại dương này, vì thế trở thành một tiêu điểm hợp tác biển quốc tế.


Duy trì "sức khỏe" của huyết mạch này là một trong những mục tiêu ưu tiên của các nỗ lực hỗ trợ biển của Mỹ. Chiến lược năm 2007 của Hải quân, Lính thủy đánh bộ và Lực lượng bảo vệ bờ biển Mỹ được đặt một cái tên khá ấn tượng là Chiến lược hợp tác sức mạnh biển thế kỷ 21 (CS-21) và vẫn còn hiệu lực đến ngày nay. Chiến lược sức mạnh biển này đã lần đầu tiên đưa vai trò trông coi hệ thống thương mại trên biển, mà Mỹ đã điều hành từ năm 1945, lên mức một nhiệm vụ "cốt lõi" của các lực lượng biển. CS-21 mô tả Tây Thái Bình Dương và khu vực Ấn Độ Dương/vùng Vịnh là các sân khấu chính của sức mạnh biển của Mỹ, bao gồm cả các chức năng cảnh sát và quân sự. Lời mào đầu của CS-21 cam kết Mỹ sẽ "cùng với các quốc gia có chung chí hướng bảo vệ và duy trì hệ thống kết nối toàn cầu mà nhờ đó chúng ta thịnh vượng".

Mục tiêu này của Mỹ vấp phải sự phải đối mạnh mẽ từ Trung Quốc, nước đang gia tăng các sức mạnh chính trị, kinh tế và quân sự. Bắc Kinh cho rằng sự can dự của Mỹ vào các vùng nước gần của Trung Quốc chỉ là một cái cớ để kiềm chế các tham vọng chính đáng của Trung Quốc. Khả năng Trung Quốc ngăn cản các hành động của Mỹ, mà họ coi là gây hại cho các lợi ích của mình, đang ngày càng lớn bên cạnh quân bài ngoại giao. Sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa hai cường quốc Thái Bình Dương này cho phép Bắc Kinh gắn các hành động của Mỹ tại biển Đông với các quan hệ kinh tế tốt đẹp. Thực vậy, Trung Quốc có thể giữ các quan hệ kinh tế xuyên Thái Bình Dương để "làm con tin", đổi lấy cách hành xử "tốt" của Mỹ tại Đông Nam Á. Kết quả là các chính quyền Mỹ nối tiếp nhau đã miễn cưỡng chống lại mong muốn của Trung Quốc trong những vấn đề mà họ cho rằng có vai trò sống còn đối với các lợi ích quốc gia của mình.

Tuy nhiên, Mỹ không thể bỏ rơi các lợi ích của mình ở biển Đông. Dù sự phản đối của Trung Quốc có thể ngăn cản Mỹ xây dựng một liên minh khu vực hùng mạnh để giải quyết các vấn đề an ninh biển, nhưng Mỹ sẽ vẫn tiến hành các hoạt động hỗ trợ biển song phương, có thể cả với các nhóm đặc biệt gồm những quốc gia quan tâm. Các hoạt động đó sẽ giúp thúc đẩy các lợi ích của Mỹ và cũng lập nền tảng hợp tác biển sâu hơn trong bối cảnh môi trường an ninh khu vực đang thay đổi lớn.

Chính sách biển của Mỹ

Đảm bảo tự do hàng hải không phải là công việc của mỗi lực lượng hải quân. "Biển" có hàm ý xa hơn "hải quân". Giáo sư trường King's College ở London, ông Geoffrey Till giải thích điều này rất rõ, ông gắn các sứ mệnh "trật tự  có lợi trên biển" trong thời bình với các chức năng mang tính chiến đấu truyền thống hơn. Từ đó, ông mở rộng và đa dạng hóa khái niệm sức mạnh biển. Hải quân là một phần trong cách nhìn của Till bên cạnh các lực lượng khác như lực lượng bảo vệ bờ biển, các Bộ ngoại giao, các cơ quan thực thi pháp luật, các cơ quan tình báo và hải quan và các cơ quan bảo vệ biên giới. Cả những công ty tư nhân như các công ty hoạt động tại cảng cũng có vai trò của mình.

Trên tinh thần này, CS-21 nêu rõ: "Chưa bao giờ các lực lượng biển của Mỹ - Hải quân, Thủy quân Lục chiến và Bảo vệ Bờ biển - cùng nhau tạo ra một chiến lược biển thống nhất như ngày nay". Đúng vậy, các chiến lược trước đó trong những năm 1980 chỉ đơn thuần là một chiến lược của hải quân nhằm nhấn chìm Hải quân Liên xô trong một cuộc chiến tranh tổng lực.

Chiến lược An ninh biển Quốc gia năm 2005 (NSMS), hiện vẫn có hiệu lực, đã thừa nhận sự cần thiết phải mở rộng tầm nhìn chiến lược quốc gia vượt ra ngoài các hoạt động của hải quân. Các Bộ Quốc phòng và An ninh Nội địa đã phát hành chiến lược chung, tái khẳng định rằng an ninh biển liên quan đến nhiều hơn sức mạnh hải quân. Lực lượng Bảo vệ Bờ biển Mỹ hiện là một cơ quan thuộc Bộ An ninh Nội địa, giống như các cơ quan Hải quân và Bảo vệ Biên giới, cũng hỗ trợ bảo vệ biển. Như vậy, NSMS đã có một cái nhìn rộng hơn về thách thức so với CS-21.

NSMS tuyên bố: An ninh biển được đảm bảo tốt nhất khi kết hợp các hoạt động bảo vệ biển của tư nhân và nhà nước trên một quy mô chung trong một nỗ lực kết hợp nhằm tấn công tất cả các mối đe dọa trên biển. Chiến lược An ninh biển Quốc gia mới đã gắn mọi chương trình an ninh biển của chính phủ liên bang với các sáng kiến thành một nỗ lực quốc gia toàn diện và gắn kết liên quan đến các thực thể Liên bang, Nhà nước, địa phương và cả tư nhân.

Văn bản này đặt ra 3 nguyên tắc chỉ đạo các nỗ lực an ninh của Mỹ trên biển: duy trì tự do trên biển, đảm bảo sự lưu thông không bị ngăn cản của tàu bè, và tạo điều kiện cho sự di chuyển dễ dàng của hàng hóa và người qua biên giới Mỹ, trong khi phát hiện những người và nguyên liệu nguy hiểm. Từ các nguyên tắc này, các tác giả đưa ra 4 mục tiêu chiến lược, trong đó hai mục tiêu được nghiên cứu đặc biệt trong tài liệu này: đề phòng các cuộc tấn công khủng bố trên biển và "các hành động thù địch và tội phạm" và "bảo vệ đại dương và các nguồn tài nguyên của nó". Quan điểm này phù hợp với cách nhìn của Till về trật tự có lợi trên biển.

Cả NSMS và CS-21 đều không thừa nhận bất kỳ ranh giới địa lý nào. Các lợi ích sống còn của Mỹ có thể gặp nguy hiểm trong bất kỳ hải trình nào trên trái đất. Giống như nhà lý luận về sức mạnh biển Alfred Thayer Mahan, cha đẻ của Hải quân Mỹ hiện đại, NSMS đã miêu tả các đại dương và biển là một sự mở rộng không thể chia cắt. Nước mặn bao bọc hơn 2/3 bề mặt Trái đất. Lượng nước này là một đại dương duy nhất, một lãnh địa biển mênh mông ảnh hưởng tới cuộc sống ở mọi nơi. Dù 4 phần chia về địa lý chính của nó - Đại Tây Dương, Bắc Cực, Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương - có những cái tên khác nhau, nhưng cơ thể biển liên tục này là hình thái địa chất lớn nhất trên quả đất.

Như vậy, liên quan đến chủ nghĩa khủng bố trên biển, NSMS chỉ thị các lực lượng "được huấn luyện, trang bị và chuẩn bị để phát hiện, răn đe, ngăn cấm và đánh bại các phần tử khủng bố thông qua lãnh thổ biển". Đây là một mệnh lệnh mở rộng phạm vi địa lý. Tuy nhiên, tài liệu này đã thẳng thắn thừa nhận rằng không quốc gia nào sở hữu đủ tiền để một mình kiểm soát toàn bộ vùng biển chung. Biển chung quá lớn, các nhu cầu quá nhiều và tài sản lại quá ít. Chiến lược trên cũng cam kết "tăng cường hợp tác quốc tế nhằm đảm bảo thực thi các hành động đúng luật pháp và đúng lúc chống các mối đe dọa trên biển".

Các vùng biển hẹp đặt ra những lo ngại đặc biệt. NSMS thấy rằng khoảng "1/3 thương mại thế giới và một nửa lượng dầu mỏ được chuyển qua Eo biển Malacca và Singapore". Vì vậy, chiếc cổng vào giữa Biển Đông và Ấn Độ Dương này là hình thái địa chất duy nhất được đề cập đến một cách đặc biệt trong tài liệu này. Tuyến đường huyết mạch này có thể bị đóng vì tai nạn, hay vì các hành động công khai như bao vây quân sự, hải tặc hay tấn công khủng bố. Để đẩy lùi các mối đe dọa đối với tàu bè qua lại trên tuyến đường quan trọng này, tài liệu trên chỉ thị cho Bộ Ngoại giao Mỹ kết hợp các sáng kiến để "củng cố các nỗ lực hiện tại, như Sáng kiến An ninh Container, Sáng kiến An ninh phòng chống Phổ biến vũ khí hàng loạt (PSI), Đối tác Thương mại - Hải quan chống khủng bố" và các hiệp ước và hiệp định liên quan.

Các cơ quan của Chính phủ Mỹ sẽ làm thế nào để hoàn thành mục tiêu trên? NSMS tuyên bố Mỹ sẽ "phối hợp chặt chẽ với các chính phủ khác cũng như các tổ chức quốc tế và khu vực để tăng cường các năng lực an ninh biển" của các quốc gia quan trọng - ví dụ thông qua tiến hành "hỗ trợ, huấn luyện và tham vấn an ninh biển và cảng", đồng thời cung cấp "hỗ trợ kinh tế về an ninh biển cho các nước đang phát triển nhằm tăng cường an ninh và thịnh vượng". Logic cơ bản là nâng cấp các năng lực về người và của của các đối tác tương lai, tức là giúp họ kiểm soát được các vùng biển xung quanh của mình, thực hiện chủ quyền đầy đủ.

Các chính phủ có các lực lượng biển được trang bị đầy đủ và có năng lực mở rộng có thể đảm bảo an ninh các vùng biển thuộc quyền của mình, nơi họ được hưởng quyền tài phán giống như đối với lãnh thổ trên đất liền. Bên cạnh đó, bằng cách duy trì trật tự ở các vùng biển khơi liền kề với vùng biển chủ quyền của quốc gia, họ ngăn chặn được các vấn đề nảy sinh - những vấn đề mà họ sẽ phải nhờ đến hành động của Mỹ. Như vậy, xây dựng khả năng giúp giảm bớt gánh nặng lên các cơ quan của Mỹ.

Nói tóm lại, Mỹ giúp chính mình khi giúp các nước khác tự lo cho họ. Bên cạnh đó, hai văn bản chiến lược nói trên cũng ban hành một sứ mệnh tuần tra ấn tượng, chỉ thị tất cả các cơ quan chính phủ Mỹ có các nhiệm vụ liên quan đến biển xây dựng các đối tác, liên minh, đồng minh đan xen. Nếu thành công, các tập đoàn như vậy sẽ sở hữu đủ năng lực để kiểm soát toàn bộ các vùng biển chung.

Còn tiếp

Châu Giang dịch theo The Middling Kingdom