Mỹ sẽ đóng vai trò an ninh lớn hơn tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Đặc biệt, Mỹ sẽ tập trung vào việc thúc đẩy sự hợp tác mạnh mẽ để củng cố tiềm năng quân sự của mỗi quốc gia tại Thái Bình Dương trong lĩnh vực tự bảo vệ an ninh quốc gia.

Tại thời điểm bắt đầu chuyến công du châu Á, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Leon Panetta đã có bài phát biểu tại hội nghị cấp cao an ninh châu Á (Đối thoại quốc phòng Shangri-La) diễn ra từ ngày 3-6/6 tại Singapore. Trong bài phát biểu, người đứng đầu Lầu năm góc cho rằng Mỹ có thể đóng vai trò an ninh lớn hơn tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Đặc biệt, ông Panetta giải thích, Mỹ sẽ tập trung vào việc thúc đẩy sự hợp tác mạnh mẽ để củng cố tiềm năng quân sự của mỗi quốc gia tại Thái Bình Dương trong việc tự bảo vệ về an ninh quốc gia.

Với thuật hùng biện mạnh mẽ, bài phát biểu của ông Panetta cho thấy mục đích trên là khá rõ ràng. Nếu chiến lược của Mỹ tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương thành công có nghĩa là trong vòng từ 10-15 năm tới các nước trong khu vực sẽ mở rộng tiềm năng quân sự, do vậy mỗi quốc gia sẽ có khả năng bảo vệ chủ quyền và mở rộng lợi ích một cách tốt hơn. Đó là mục đích của ông Panetta, nó được thể hiện rõ qua bài phát biểu và tất nhiên điều này thể hiện chính sách nhất quán của chính quyền tổng thống Obama.

Tuy vậy, chiến lược trên còn có một vài điểm không rõ ràng. Nếu chiến lược trên được thực hiện như kế hoạch, có nghĩa là các đồng minh châu Á sẽ viện trợ nhiều kinh phí nhiều hơn cho quân đội của họ? Không nhất thiết. Các nước sẽ tự triển khai lực lượng mà không phụ thuộc và Mỹ? Không chắc chắn.

Bài phát biểu của Bộ trưởng Quốc phòng Panetta tuyên bố, Mỹ có thể "đổi mới và củng cố" lực lượng cùng với "sự đẩy mạnh hợp tác trong khu vực". Điều đó phải chăng ngụ ý rằng Mỹ sẽ rút bớt quân khỏi châu Âu để tăng cường cho châu Á? Có lẽ là không phải vậy.

Bộ trưởng Panetta nhấn mạnh, quân đội Mỹ sẽ có mặt tại châu Á. Tuy nhiên, việc điều động sẽ phải linh hoạt hơn. Các khu vực châu Á-Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương hiển nhiên là cần sự trợ giúp của lực lượng không quân và hải quân hơn là sự hiện diện với số lượng lớn của quân đội Mỹ ở trên bộ, chính vì vậy điều này sẽ (ít hấp dẫn).

Tuy nhiên, trong tương lai chúng ta không thể biết được cách bố trí của lực lượng Mỹ tại khu vực này.  Do đó, chúng ta chỉ có thể đánh giá thông qua những nơi mà họ đang đồn trú và những nơi họ đã từng ở đó.

Một công bố gần đây trên trang thông tin quốc phòng số ra ngày 4/6/2012 kèm theo cả một bản đồ khu vực, cho thấy địa điểm quân đội Mỹ đang đồn trú cùng với  số lượng cụ thể. Số liệu này là sự tập hợp từ báo cáo quí II và báo cáo triển khai lực lượng tại Hàn Quốc. Qua đó cho thấy, số lượng quân Mỹ còn khá khiêm tốn. 13 trong tổng số 19 nước trong khu vực có quân Mỹ đồn trú ít hơn 100 quân. Trong đó, số quân Mỹ có mặt tại Trung Quốc là nhiều nhất (74) nhiều hơn so với số quân Mỹ có mặt tại ba nước Ấn Độ, Inđônêxia và Băngla Đét cộng lại (71). Phần lớn quân đội Mỹ đồn trú tại châu Á-Thái Bình Dương tập trung ở Haoai (42.502) và ở Guam (hòn đảo thuộc Mỹ nằm ở Tây Thái Bình Dương) (4.272).

Trong bài phát biểu, ông Panetta cũng đã đề cập đến việc rút bớt lực lượng Mỹ hiện đang đồn trú tại Nhật Bản và Hàn Quốc và nhấn mạnh xu hướng này sẽ tiếp tục triển khai trong một thời gian dài. Hiện số quân Mỹ đồn trú tại Nhật là (36.708) và ở Hàn Quốc là (18.470). Hãy so sánh các con số. Năm 1950, số quân nhân Mỹ tại ngũ và làm nhiệm vụ tại Nhật Bản là 136.554 người (bao gồm ở cả hai hòn đảo là Okinawa và Ryukyu), đến năm 1970 con số này giảm xuống còn 82.264 và đến năm 1990 chỉ còn 46.593 người. Ban đầu, số lượng quân Mỹ tại Nhật Bản và đảo Guam là tương đương nhau, sau đó số lượng quân số tại Nhật Bản giảm đáng kể do phần lớn bị điều động sang đảo Guam. Bộ trưởng Panetta giải thích, sự điều chuyển này sẽ làm cho sự hiện diện của Mỹ tại Okinawa ổn định hơn về mặt chính trị và thúc đẩy sự phát triển tại Guam, địa điểm chiến lược quan trọng của quân đội Mỹ tại Tây Thái Bình Dương.

Tóm lại sự hiện diện của quân đội Mỹ tại khu vực châu Á-Thái Bình Dương đã giảm dần trong thập kỷ qua, đặc biệt là số lượng quân nhân tại Đông á. Người đứng đầu Lầu năm góc ngụ ý rằng xu hướng rút bớt quân này sẽ còn tiếp tục, tuy  nhiên ông cũng nhấn mạnh Mỹ sẽ đóng vai trò lớn hơn trong khu vực. Hải quân Mỹ sẽ tăng cường sự có mặt trong khu vực, nhưng hiện chưa biết chính xác địa điểm và sự hiện diện này sẽ diễn ra như thế nào. Tại hội nghị cấp cao an ninh châu Á trên, Singapore đã nhất trí trên nguyên tắc sẽ đóng góp 4 tàu chiến. Tuy nhiên, con số này còn thua xa so với lời hứa của bộ trưởng Panetta về việc sẽ triển khai 60% số tàu hải quân Mỹ đến châu Á-Thái Bình Dương vào năm 2020 (số tàu chiến Mỹ hiện có tại Đại Tây Dương và Thái Bình Dương là bằng nhau).

Bên cạnh đó còn có những vấn đề lớn khác chưa được biết đến: Các nước trong khu vực sẽ cam kết về vấn đề an ninh như thế nào theo chiến lược của Nhà Trắng? Một cách duy nhất để đánh giá là thông qua ngân sách quốc phòng của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, hầu hết các nước tham dự hội nghị đều đi theo xu hướng là không cam kết trước. Báo cáo Cân bằng quân sự 2012 thuộc Viện nghiên cứu chiến lược quốc tế (IISS) cho biết tỷ lệ tăng trưởng khắp châu Á không tương đương với việc gia tăng chi tiêu quốc phòng. Hơn 10 năm qua, từ năm 2001-2010 tỷ lệ ngân sách tính trên GDP cho quốc phòng đã giảm từ 2,83% xuống còn 1,94% tại khu  vực như Nam và Trung á. Thậm chí, tại Đông á còn không có ngân sách cho lĩnh vực này và tỷ lệ này ở Ôxtrâylia chỉ chiếm 1,41% GDP trong năm 2001 và cũng chỉ là  1,44 % GDP trong năm 2010.

Không ngạc nhiên gì khi những con số trên xuất hiện trong bối cảnh  chi tiêu quốc phòng của Mỹ lại tăng đáng kể tại cùng thời điểm, từ 3% trong năm 2001 lên đến 4,8% GDP trong năm 2010. Phần lớn sự gia tăng đó đều do ngân sách đã đổ vào cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ tại Irắc và Ápganixtan và tất nhiên số tiền đó không giành cho khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Thêm vào đó, những quốc gia này cũng không thích rót thêm tiền cho những thứ mà họ được cung cấp miễn phí và đó chính là chiến lược lớn của Mỹ, theo hướng đó quân đội Mỹ sẽ được điều động và bố trí.

Các nhà hoạch định chính sách Mỹ thường phàn nàn về việc nhiều nước đồng minh đã không chia sẻ gánh nặng ngân sách với Mỹ một cách công bằng. Tuy nhiên, trên thực tế những nước này đã hài lòng với tình trạng hiện nay của họ. Mỹ luôn quan ngại một trong hai khả năng sau có thể xảy ra tại các nước đồng minh:

a)     Phát triển tiềm lực quân sự, đe dọa quốc gia láng giềng và chạy đua vũ trang khu vực.

b)    Chấp nhận thách thức an ninh để phát triển, yêu cầu sự tiếp viện của lực lượng Mỹ ở giai đoạn sau. Do đó, Oasinhtơn đã lựa chọn sự duy trì sự hiện diện quân đội Mỹ ở cả hai lục địa châu Âu và châu Á với hy vọng ngăn chặn một trong hai khả năng trên sẽ xảy ra.

Chúng ta không biết điều gì sẽ xảy ra nếu Oasinhtơn rút quân khỏi cả hai châu lục sau khi Liên bang Xô viết sụp đổ. Tuy nhiên, chúng ta có thể đánh giá được chi phí cho mỗi cuộc chiến của Mỹ là quá lớn và quân đội nước này đã phải đối mặt với nhiều nguy cơ vượt ngoài sức tưởng tượng, trong khi các nước khác lại chịu ít rủi ro hơn. Các nhà hoạch định chính sách Mỹ rất nhiều lần bày tỏ quan ngại về việc các nước khác có thể gia tăng tiềm năng quân sự và có chiều hướng sử dụng nó. Tuy  nhiên, điều này đã không xảy ra. Hầu hết các nước đồng minh của Mỹ đều có tiềm năng quân sự yếu khi cuộc chiến tranh lạnh kết thúc và đương nhiên họ đã gia tăng khả năng củng cố quân sự kể từ thời điểm đó.

Trong 10-15 năm nữa chúng ta mới có thể biết được liệu chính sách hướng Đông của Mỹ là thành công hay không? Khi mà chúng ta chứng kiến những gì ngược lại với những gì đang diễn ra hiện nay như nước Mỹ sẽ chi tiêu ít hơn cho quân sự do các nước đồng minh trong khu vực chia sẻ nhiều hơn? Tôi nghĩ là có thể và phần lớn người Mỹ đều nghĩ vậy. Tuy nhiên, tôi vẫn nghờ  rằng các nhà hoạch định chính sách cũng có ý nghĩ như tôi./.

Hằng Linh theo The National Interest