
Từ ngày 13 đến 16/11, tôi sẽ dẫn đầu một phái đoàn thương mại Bộ Thương mại Hoa Kỳ trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng tới thăm Việt Nam, mang lại cơ hội tuyệt vời để mở rộng quan hệ kinh tế và thương mại cùng có lợi giữa Hoa Kỳ và Việt Nam. Đây sẽ là chuyến thăm thứ ba của tôi và là phái đoàn thương mại thứ hai tới Việt Nam kể từ tháng 4/2011. Chương trình được xây dựng để nhấn mạnh cách thức Chính phủ Hoa Kỳ, làm việc với các tổ chức khu vực công của chúng tôi, đã đưa ra cam kết lâu dài để giúp xây dựng cơ sở hạ tầng trọng yếu mà Việt Nam cần có để hội nhập toàn cầu thành công, sử dụng các sản phẩm và công nghệ đã được chứng minh của Mỹ.
Đoàn gồm 8 công ty lớn của Hoa Kỳ sẽ đến thăm cả Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, gặp gỡ và làm việc với các nhà lãnh đạo chính phủ và doanh nghiệp để tìm hiểu và thúc đẩy việc Hoa Kỳ tham gia nhiều hơn vào các dự án cơ sở hạ tầng như năng lượng, bao gồm cả năng lượng hạt nhân dân sự; hàng không; công nghệ môi trường; kiến trúc, xây dựng, và cơ khí.
Tôi đã mời các cơ quan đối tác ở cấp liên bang của chúng tôi là Cục Phát triển Thương mại Hoa Kỳ (USTDA) và Tập đoàn Đầu tư Tư nhân Hải ngoại (OPIC) tham gia phái đoàn thương mại này và mang tới Việt Nam phương pháp tiếp cận "tổng thể của chính phủ Hoa Kỳ" hay Team USA của chúng tôi đối với việc xây dựng quan hệ thương mại.
Phái đoàn thương mại này đến thăm vào một thời điểm thuận lợi khi Việt Nam tìm cách làm việc với Hoa Kỳ để thiết lập cơ sở hạ tầng cả về nguồn lực vật chất và con người có tầm quan trọng quyết định đối với giai đoạn tăng trưởng và phát triển tiếp theo. Nền kinh tế Việt Nam đang lớn mạnh, tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt mức trung bình hơn 6% mỗi năm trong thập kỷ qua. Mặc dù gần đây tăng trưởng đã giảm tốc, tôi tin rằng điều này phản ánh thực trạng môi trường kinh tế toàn cầu, và nó nhấn mạnh đến việc Việt Nam hết sức cần thiết phải thúc đẩy kế hoạch cải cách kinh tế với 3 trọng tâm mà Phó Thủ tướng Vũ Văn Ninh đã chia sẻ với chính quyền của Tổng thống Obama khi ông đến thăm Washington đầu năm nay.
Cùng lúc, hai nước chúng ta tiếp tục gặt hái lợi ích từ Hiệp định Thương mại Song phương Hoa Kỳ-Việt Nam 2001 (BTA) và việc Việt Nam gia nhập WTO năm 2007 với kim ngạch thương mại song phương ngày càng tăng, từ 3 tỷ đôla năm 2002 lên gần 22 tỷ đôla năm 2011. Xuất khẩu toàn cầu của Việt Nam cũng đạt kỷ lục 95 tỷ đôla trong năm 2011.
Tôi tin rằng BTA Hoa Kỳ-Việt Nam và sự mở rộng quan hệ đối tác thương mại của chúng ta đã góp phần tạo nên một câu chuyện thành công kinh tế làm thay đổi cuộc sống hàng ngày của người dân Việt Nam theo hướng tốt hơn. Hơn nữa, nó đã đặt nền tảng cho việc mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực khác, cho phép Hoa Kỳ và Việt Nam hiện thực hoá mối quan hệ đối tác mà chúng ta đang có ngày hôm nay.
Ngoài ra, tôi hoan nghênh vai trò trung tâm của Việt Nam trong việc tăng cường sự đồng thuận và các mối ưu tiên trong Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đại diện cho 609 triệu người và một trong những thị trường lớn nhất và năng động nhất đối với các nhà xuất khẩu Hoa Kỳ. 10 nước thành viên kết hợp lại có GDP lên tới gần 2,2 nghìn tỷ đôla, và thương mại hàng hóa của khu vực với Hoa Kỳ đã tăng vọt, từ khoảng 120 tỷ đôla/năm vào năm 2002 lên 194 tỷ đôla năm 2011 – mức tăng trưởng gần 62%.
Tuy vẫn còn các thách thức đối với các công ty Hoa Kỳ tìm kiếm cơ hội kinh doanh ở Việt Nam, song các doanh nghiệp Hoa Kỳ đang ngày càng nhận thấy rõ đất nước này thực sự là một thị trường đang nổi lên. Phái đoàn thương mại này sẽ cổ vũ cho việc các công ty Hoa Kỳ tham gia vào các dự án lớn và xúc tiến cho những quan hệ đối tác hợp tác giữa các thành viên phái đoàn và các công ty Việt Nam cũng như với các quan chức chính phủ. Cơ quan của tôi, Vụ Thương mại Quốc tế, đã thu xếp nhiều cuộc gặp để các bên tìm đối tác kinh doanh, tạo nền móng để phái đoàn thương mại có một chuyến đi thành công.
Trong chuyến thăm, tôi dự định sẽ tìm hiểu với các bên liên quan về cách thức tốt nhất áp dụng các mô hình quan hệ đối tác công-tư đối việc cấp vốn cho các dự án cơ sở hạ tầng trọng yếu, cũng như cung cấp các nguồn vốn thay thế và bổ sung cho viện trợ phát triển chính thức và các nguồn tài trợ khác.
Những cách tiếp cận này có thể đóng một vai trò quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cho cơ sở hạ tầng và các ngành khác. Tôi cũng sẽ mong nhận được các thông tin cập nhật quan trọng về cải cách cơ cấu và thương mại của Việt Nam thông qua các cuộc họp của chúng tôi với các nhà lãnh đạo chính phủ Việt Nam.
Nhìn về phía trước, Hoa Kỳ coi trọng sự cộng tác với Việt Nam như là một đối tác đàm phán Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương, nó có tiềm năng trở thành một trong những hiệp định tự do kinh tế năng động nhất của thế kỷ 21.
Các doanh nghiệp Hoa Kỳ là những nhà cung cấp những công nghệ và dịch vụ tiên tiến nhất, họ đang ở ví trí sẵn sàng và háo hức được giúp đỡ nền kinh tế đang phát triển của Việt Nam. Sau khi dẫn đầu một phái đoàn phát triển kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục đến thăm Việt Nam năm ngoái để giúp xây dựng cơ sở hạ tầng nguồn nhân lực của Việt Nam, tôi phấn khởi về triển vọng sẽ quay trở lại Việt Nam một lần nữa để hỗ trợ cho phái đoàn lần này và giúp các bên ký kết được các thoả thuận quan trọng về cơ sở hạ tầng.
Francisco J. Sánchez, Thứ trưởng chuyên trách Thương mại Quốc tế tại Bộ Thương mại Hoa Kỳ