
Trung Quốc đã kết thúc tình trạng hồi hộp chờ đợi bằng việc thông báo ban lãnh đạo mới của đất nước do ông Tập Cận Bình đứng đầu. Trong khi giới lãnh đạo Đảng Cộng sản và Quân ủy Trung ương đã được xác định, chúng ta vẫn phải chờ tới tháng Ba mới có được một ý niệm rõ ràng về các định hướng chính sách của giới lãnh đạo mới ở Trung Quốc, khi Quốc hội nước này bổ nhiệm các Bộ trưởng và các quan chức chính phủ khác. Nhưng không còn là quá sớm để xác định các thách thức chính của họ và dự báo về cách mà các lãnh đạo mới sẽ đối phó với các thách thức này.
Có một sự đồng thuận đáng ngạc nhiên ở bên trong và ngoài nước Trung Quốc về các vấn đề chính và các cuộc cải cách cần được thực hiện. Các vấn đề này tập trung chủ yếu vào việc nới lỏng sự kiểm soát của đảng và nhà nước, cho phép lĩnh vực tư nhân và xã hội dân sự tham gia nhiều hơn, trong khi tái định hướng các nguồn lực vào cải tiến, cách tân và giảm bất công bằng xã hội. Đặc biệt các nhiệm vụ khẩn cấp gồm:
- tái định hướng mô hình tăng trưởng kinh tế ra khỏi các đầu tư vào cơ sở hạ tầng vật chất và tài trợ cho xuất khẩu, sang nền tăng trưởng dựa vào tiêu dùng trong nước và đổi mới, cách tân, nhấn mạnh tới nền kinh tế tri thức và các ngành công nghiệp dịch vụ;
- phá vỡ sự độc quyền của chính phủ đối với một số lĩnh vực, tăng cường xã hội dân sự nhằm tạo điều kiện cho các dòng thông tin tự do cần trong một nền kinh tế thị trường và xã hội cải tiến thực sự.
- tập trung hợp lý "các hàng hóa công" vào dân chúng - bao gồm chăm sóc y tế, bảo vệ môi trường, cải thiện chất lượng giáo dục, lương hưu, chăm sóc cho người già - trong khi giải quyết nghiêm túc tình trạng phân tầng và bất công trong xã hội;

- thiết lập các quy định pháp luật thực sự để chống tham nhũng lan tràn, tội phạm gia tăng, sự lạm dụng quyền lực và đặc quyền một cách có hệ thống và tạo điều kiện cho một nền kinh tế thị trường hoạt động đúng cách;
- giải quyết những bất đồng sôi sục giữa các nhóm sắc tộc tại Tây Tạng và Tân Cương một cách tích cực;
- cho phép chủ nghĩa đa phương chính trị ngay trong hệ thống một đảng.
Trong lĩnh vực chính sách đối ngoại, các nước láng giềng của Trung Quốc sẽ hy vọng nước này có một cách tiếp cận thân thiện và ít đối đầu hơn, đặc biệt trong các tranh chấp lãnh thổ trên biển. Bắc Kinh cũng cần phối hợp với Mỹ để ngăn chặn cạnh tranh chiến lược và sự bất tín nhiệm hiện đang có trong giới lãnh đạo. Quan hệ với các nước khác trên thế giới của Trung Quốc ngày càng bị tác động bởi quan niệm của nước này là một nhà nước hám lợi, thèm khát năng lượng và đầu tư vào tài sản chiến lược. Trung Quốc cũng cần đóng một vai trò lớn hơn trong việc lãnh đạo toàn cầu, tương xứng sức mạnh và vị trí của mình trong cộng đồng quốc tế.
Bên trong và bên ngoài Trung Quốc có một sự thừa nhận rộng rãi rằng nước này đã đạt tới một ngưỡng phát triển mà ở đó các chương trình và chính sách lớn trong 30 năm qua bắt đầu dẫn tới sự chững lại và cần những cuộc cải cách và định hướng chất lượng mới. Nhưng liệu thế hệ lãnh đạo thứ 5 có tập trung vào các cuộc cải cách cơ bản cần thiết cho đất nước hay không? Trong khi một số người luôn hy vọng rằng các lãnh đạo mới sẽ đem đến triển vọng mới và chính sách mới, có 4 nhân tố khiến người ta phải có những đánh giá thận trọng hơn.
Đầu tiên là cái mà các nhà khoa học chính trị gọi là "con đường phụ thuộc" - một thói quen của nhà nước đối với đường đi hiện nay. Rất khó để thay đổi các hướng đi lớn trong chính sách quốc gia - nhất là khi mô hình tăng trưởng của nó từng tạo ra những thành quả ngoạn mục như Trung Quốc đạt được trong 30 năm qua. Mô hình tăng trưởng này không chỉ tạo ra sự phát triển quốc gia ấn tượng - nó còn sử dụng một lực lượng lớn lao động tay nghề kém. Thoát khỏi mô hình này có nguy cơ dẫn tới thất nghiệp lan rộng và rối loạn trong giới lao động, từ đó đe dọa sự ổn định xã hội và quyền lực của đảng.
Tất nhiên Trung Quốc không cần vứt bỏ nền kinh tế xuất khẩu của mình hay các công trình cơ sở hạ tầng trong nước, mà họ cần thêm vào cả hai. Thành phần xuất khẩu cần chuyển tới nấc cao hơn trong dây chuyền giá trị - và điều này gắn với việc chuyển hướng đầu tư từ cơ sở hạ tầng "cứng" sang cơ sở hạ tầng "mềm": giáo dục, khoa học, công nghệ cao, cải tiến và sáng tạo văn hóa. Để Trung Quốc làm được những chuyển đổi này, đòi hỏi không chỉ một sự thay đổi đầu tư tài chính, mà cần nới lỏng hệ thống chính trị, xã hội dân sự.
Điều này dẫn tới một nhân tố ngăn cản thứ hai: cái bóng của Liên Xô. Đảng Cộng sản Trung Quốc ý thức sâu sắc các nhân tố dẫn tới sự sụp đổ của Liên bang Xô Viết và sự tan rã của các vệ tinh cũ của Liên Xô ở Đông Âu. Gần đây hơn, họ đã chứng kiến và nghiên cứu kỹ "các cuộc cách mạng màu sắc" trên khắp khu vực Á - Âu và làn sóng Mùa xuân Arập. Đảng rất lo ngại nguy cơ một kịch bản tương tự có thể lặp lại ở Trung Quốc, và nhớ lời ông Mao Trạch Đông từng nói: "Một tia lửa nhỏ có thể thiêu rụi một thảo nguyên". Họ lo ngại rằng đi những bước đầu tới mở cửa hệ thống chính trị sang chủ nghĩa đa phương thực sự, tăng quyền cho xã hội dân sự và suy nghĩ phê bình trong giáo dục và nghiên cứu, hoặc trao quyền tự chủ cho hệ thống lập pháp và tư pháp, sẽ không tránh khỏi việc đảng mất kiểm soát và quyền lực. Trong các cuộc thảo luận và các ấn phẩm, nhiều nhà tri thức là đảng viên đã thừa nhận rằng các cuộc cải cách này là cần thiết, nhưng những người bảo thủ trong đảng vẫn chưa chấp nhận.
Chướng ngại thứ ba là các lợi ích mang tính thể chế. Trung Quốc có thể không là một nền dân chủ, nhưng chắc chắn có các nhóm lợi ích và nền chính trị quan liêu. Hoàn toàn tự nhiên khi các nhóm lợi ích trong bất cứ hệ thống nào sở hữu tài sản, nguồn lực, sức mạnh và đặc quyền đều không muốn tự nguyện từ bỏ chúng - và họ sẽ sử dụng tất cả các biện pháp có thể để đập tan mọi âm mưu hủy hoại chúng. Trong trường hợp của Trung Quốc, để tấn công vào các nhóm lợi ích đang bóp méo hệ thống này, cần tấn công vào chính hệ thống đó. Nhà nước của Đảng Cộng sản Trung Quốc sẽ không bị tự hủy diệt.
Vấn đề cốt lõi là khu vực nhà nước trong nền kinh tế, hiện chiếm khoảng 30% GDP. Khu vực này bao gồm các công ty độc quyền của nhà nước trong lĩnh vực ngân hàng, năng lượng, tài chính, quốc phòng, công nghiệp nặng, vũ trụ, viễn thông, và nhiều lĩnh vực vận tải, cũng như đất đai và tài sản của đảng, nhà nước và quân đội. Lenin từng cảnh báo "chủ nghĩa tư bản nhà nước độc quyền" năm 1917, và ngày nay Trung Quốc đang rơi vào chủ nghĩa này. Các nhóm lợi ích này, đặc biệt là 145.000 doanh nghiệp nhà nước và 120 tập đoàn "hàng đầu quốc gia" sẽ không tự nguyện từ bỏ lợi ích của mình.
Bên cạnh các công ty độc quyền của nhà nước, ba nhóm lợi ích khác được bảo vệ cũng cần phải cải cách: đó là quân đội, lực lượng an ninh nội địa đồ sộ và ngổn ngang, và nhánh bảo thủ trong Đảng Cộng sản. Cùng nhau, "bộ tứ vững chắc" này đã thành công trong việc điều khiển chính quyền mãn nhiệm của ông Hồ Cẩm Đào. Ngay cả khi ông Tập Cận Bình và giới lãnh đạo mới mong muốn nới lỏng hoặc phá bỏ các đặc quyền mà các nhóm lợi ích này đang nắm được tại Trung Quốc, họ sẽ phải đối mặt với sự chống cự mạnh mẽ và khó vượt qua.
Trở ngại thứ tư trong việc cải cách các quan hệ của Trung Quốc với các nước láng giềng và thế giới phương Tây nằm ở chủ nghĩa dân tộc và thái độ bắt nạt kẻ yếu của nước này. Điều này, tồn tại và phát triển trong hơn 6 thập qua thông qua các hệ thống giáo dục và tuyên truyền, đã củng cố sự tồn tại chính trị của Đảng Cộng sản, nhưng đó lại là nguyên nhân gây va chạm với các nước láng giềng và phương Tây. Trung Quốc cần từ bỏ "hành trang tâm lý" này để thực sự bình thường hóa quan hệ với châu Á và phương Tây - nhưng làm như vậy sẽ ảnh hưởng tới tính hợp pháp của đảng.
Vì các trở ngại trên, cũng như sự phức tạp của các vấn đề và thách thức chính sách, tôi không lạc quan rằng giới lãnh đạo mới ở Trung Quốc có thể tiến hành các cuộc cải cách cần thiết để cải thiện xã hội trong nước và quan hệ với nước ngoài. Vì vậy, thế giới cần dự báo những vấn đề gay gắt hơn ở trong nước Trung Quốc và những va chạm nhiều hơn ở bên ngoài./.
Châu Giang theo Yaleglobal
* Thông tin tác giả: David Shambaugh là một học giả Trung Quốc. Ông là giáo sư và Giám đốc Chương trình Chính trị Trung Quốc tại Đại học Các vấn đề quốc tế Elliot thuộc Đại học George Washington (Mỹ). Ông cũng là thành viên Chương trình nghiên cứu chính sách đối ngoại của Viện nghiên cứu Brookings.