- Ở LaHay, Hà Lan, trong hai ngày này, 24-25/3/2014, tại Hội nghị Thượng đỉnh Hạt nhân quốc tế lần thứ III, đoàn đại biểu VN sẽ có dịp trình bày một chủ trương rõ ràng, nhất quán: Một mặt, thúc đẩy nhanh chóng quá trình ứng dụng năng lượng hạt nhân vào mục đích hòa bình và phát triển đất nước. Mặt khác, chối bỏ dứt khoát khả năng chế tạo và ngăn chặn sự lan truyền loại vũ khí hủy diệt - bom hạt nhân trên thế giới.

{keywords}
Lễ đón Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng tại sân bay Hà Lan. Ảnh: Tiền phong.

Theo đề nghị của Tổng Thống Hoa Kỳ Barak Obama, Hội nghị Thượng đỉnh Hạt nhân lần thứ I, được tổ chức vào năm 2010 ở Washington (Hoa Kỳ) và tiếp theo là Hội nghị Thượng đỉnh II, vào năm 2012 ở Seoul Hàn Quốc.

Gần như trở thành thường lệ, 2 năm 1 lần vào năm chẵn, năm nay 2014, Hội nghị lần III kéo dài 2 ngày (24 và 25/3/2014) ở LaHay, Hà Lan. Theo mục tiêu tổng quát của các hội nghị Thượng đỉnh này, Hội nghị lần III đang diễn ra sẽ tập trung chủ yếu vào nội dung cụ thể: tăng cường an ninh hạt nhân và ngăn chặn khủng bố, tội phạm và tất cả các đối tượng có thể chiếm đoạt vật liệu hạt nhân, phóng xạ làm vũ khí và phát tán phóng xạ.

Rõ ràng, để đạt được các mục tiêu lớn lao trên, trong những năm tới cộng đồng thế giới và mỗi nước thành viên nói riêng đứng trước những thách thức quan trọng nhất. Việt Nam cũng vậy. Bên cạnh nhiệm vụ tiếp tục bảo đảm an ninh hạt nhân và thúc đẩy ứng dụng hạt nhân vào mục đích hòa bình của đất nước mình, cần phải tiếp tục chính sách chung đã nhất quán: chối bỏ khả năng chế tạo và ngăn chặn sự lan truyền loại vũ khí hủy diệt - bom hạt nhân trên thế giới.

Trong thực thi nhiệm vụ thứ nhất, ngoài việc vận hành an toàn và hiệu quả Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt, Ngành Năng lượng Hạt nhân VN đang bắt tay vào quá trình xây dựng Trung tâm Khoa học, Công nghệ Hạt nhân mới với lò phản ứng thứ hai. Để tranh thủ sự hỗ trợ quốc tế, qua chuyến thăm của Tổng Giám đốc IAEA vừa qua, quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và IAEA có những bước phát triển tích cực.

Trong khi nỗ lực chuẩn bị cho dự án điện hạt nhân đầu tiên, Việt Nam là một đối tác quan trọng của IAEA, thuộc số các nước mới bắt đầu chương trình điện hạt nhân và mong muốn tăng cường hợp tác hơn nữa với IAEA và các nước có kinh nghiệm trong nhiệm vụ thiết lập một chương trình điện hạt nhân an toàn, an ninh và ổn định. Trong đó, có nhệm vụ xây dựng cơ quan pháp quy độc lập nhằm quản lý và đảm bảo an toàn cho các cơ sở hạt nhân.

Một nhiệm vụ khác, thứ hai, rất quan trọng đối với mọi thành viên, trong đó có VN. Đó là trách nhiệm liên quan đến bảo quản các nguyên, nhiên liệu liên quan các loại "vù khí hủy diệt gây tàn phá khu vực rộng lớn.....", đầu tiên cần phải kể đến bom hạt nhân; gồm bom phân hạch (bom A) và bom khinh khí (bom H).

Trong thực tế, Việt Nam đã tuân thủ mọi quy định quốc tế về sử dụng năng lượng hạt nhân vì mục tiêu dân sự đã cam kết. Năm 1982 Việt Nam tham gia Hiệp ước Không phổ biến vũ khí hạt nhân (NPT). Năm 1996, VN lại ký kết Hiệp ước cấm thử vũ khí hạt nhân toàn diện (CTBT) và năm 2006 phê chuẩn CTBT. VN cũng đã ký Hiệp định Bảo đảm An ninh toàn diện với Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) có hiệu lực vào năm 1990. Ngoài ra, Việt Nam cũng trở thành một thành viên của Hiệp ước Phi vũ khí hạt nhân khu vực Đông Nam Á (Hiệp ước Băng Cốc).

Không chỉ tuyên bố, Việt Nam đã hành động, đã thể hiện sự nghiêm chỉnh thực thi các cam kết quốc tế trong hành động cụ thể - xử lý nghiêm túc với nhiên liệu của Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt.

{keywords}
Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt.

Về nguyên lý, các lò nghiên cứu như Lò Đà Lạt cũng có khả năng tận dụng để chế tạo hai loại nhiên liệu: đồng vị Plutonium 239 (ký hiệu Pu239) và Uranium 235 (U235), đó là những “chất nổ” của bom hạt nhân. Nghi ngờ này đang đặt ra với một lò loại tương tự ở Trung tâm Hạt nhân Yongbyon của Triều Tiên.

Nhưng với lò Đà Lạt thì không hề có biểu hiện gì để có thể nghi ngờ về sự nghiêm túc đối với luật pháp quôc tế của nước chủ nhà Việt Nam.

Trước hết về “chất nổ” Pu239. Vì lò hạt nhân Đà Lạt có công suất rất bé. Theo ước tính, số Pu239 được tạo ra ở lò này chỉ khoảng dưới một trăm gram mỗi năm, nên phải rất lâu (trên 60 năm!) mới đủ lượng “chất nổ” tối thiểu (khoảng 6 kg hay 6.000 gram Pu239) để chế tạo cho 1 quả bom. Trong thực tế, các đoàn thanh sát của IAEA cũng đã định kỳ đến Lò Đà Lạt để thanh sát tại chỗ và không hề phát hiện một dấu vết gì đáng để nghi ngờ cả.

Và về chất nổ U235? Ở Lò Đà Lạt, từ năm 1983 đến năm 2007, các thanh nhiên liệu đều chứa Uranium có độ giàu cao (gọi tắt là HEU) với hàm lượng 36%. Với nhiên liệu có độ giàu cao như vậy, nếu nước chủ nhà có thâm ý hay nhỡ để lọt vào tay “kẻ gian”, sẽ có nguy cơ được làm giàu tiếp để đạt cấp độ 90% đáp ứng yêu cầu “chất nổ” của bom hạt nhân.

Do đó, việc giảm độ giàu của thanh nhiên liệu xuống độ giàu thấp (LEU) với hàm lượng dưới 20% đã được khuyến cáo, không chỉ ở Lò Đà Lạt mà với tất cả các lò khác trên thế giới.

Việt Nam đã sẵn sàng chấp nhận khuyến cáo này. Và Chính phủ VN đã chấp nhận một dự án quốc tế được Liên Hiệp Quốc bảo trợ và các thoả thuận song phương Việt - Mỹ và Nga - Mỹ, từ tháng 9/2007 đến tháng 10/2011, đã thực hiện việc chuyển đổi xong tất cả các thanh nhiên liệu của Lò Đà Lạt, từ độ giàu cao (HEU) ở mức 36% sang độ giàu thấp (LEU) ở mức dưới 20%. Cả hai loại thanh nhiên liệu đều sản xuất ở Nga và tất cả các thanh có độ giàu cao đều được chuyển về nơi sản xuất, nước Nga. Ngoài ra, Việt Nam cũng đã hợp tác với Hoa Kỳ để gia tăng sự bảo vệ chống mất mát các thanh nhiên liệu nằm trong lò và lưu giữ trong kho chứa ở lò Đà Lạt.

Với các hành động trên, ngay ở diễn đàn của Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ III này, toàn thế giới, qua báo cáo của đoàn đại biểu Việt Nam, có thể thấy rõ nước Việt Nam đã nghiêm túc chối bỏ khả năng chế tạo và ngăn chặn sự lan truyền loại vũ khí hủy diệt, bom hạt nhân trên thế giới.

Gần đây, chính tổ chức phi chính phủ quốc tế nổi tiếng có tên “Sáng kiến đe dọa hạt nhân” (The Nuclear Threat Initiative, viết tắt là NIT) đã khẳng định: “Việt Nam không sở hữu vũ khí hạt nhân, sinh học hay hóa học, hoặc các chương trình phát triển các loại vũ khí đó, và là một bên tham gia hầu hết các hiệp ước không phổ biến và các thỏa thuận liên quan…”.

Trần Minh