- Khi các lĩnh vực vốn không trong “tầm ngắm” của Nobel ngày càng có đóng góp quan trọng trong đời sống, cơ cấu giải thưởng quốc tế danh giá nhất cũng đang thay đổi.
TIN LIÊN QUAN
Trong di chúc để lại sau khi mất, Alfred Nobel hiến tặng toàn bộ tài sản cho Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thuỵ Điển để thành lập một quỹ mang tên mình. Ông viết: “Lợi nhuân của quỹ sẽ được chia hàng năm thành 5 phần bằng nhau dưới dạng giải thưởng cho những người có cống hiến lớn nhất, đối với lợi ích của nhân loại trong năm trước đó trong các ngành Sinh học hoặc Y học, Vật lý học, Hoá học, Văn chương và giải Hoà bình …”.
Nhà thiên văn lỗi lạc Edwin Hubble. |
Vào nửa đầu của thế kỷ XX, nhà thiên văn học lỗi lạc Edwin Hubble có rất nhiều phát kiến lớn về vũ trụ, có thể nói là đã làm cách mạng trong suy nghĩ của mọi người về khoảng không gian vô cùng rộng lớn và đầy bí ẩn ngay trên đầu chúng ta (mà ngày nay ai cũng biết đến chiếc kính thiên văn khổng lồ bay trên quỹ đạo và một giải thưởng về Thiên văn học quan trọng nhất mang tên ông).
Hầu như năm nào (sau Thế chiến II) ông cũng là một ứng cử viên sáng giá nhất, song đều bị các vị “mũ cao áo rộng” bảo thủ trong Uỷ ban xét giải gạt bỏ vì “cụ Nobel không ghi trong di chúc”. Về sau, trước áp lực của các nhà khoa học, kể cả những người đã được giải, các vị đành phải nghĩ lại.
Năm 1953, ý định chung của Uỷ ban là dành giải năm ấy cho Hubble và việc bỏ phiếu sẽ diễn ra vào ngày 1/10 (để 3/10 công bố) thì trước đó 3 ngày, 28/9/1953 ông đột ngột qua đời vì một cơn đau tìm đột ngột. Vậy là Hubble bị hụt giải!
Sự việc này quả là tương tự với trường hợp vừa mới xảy ra vừa qua đối với nhà khoa học hậu sinh của Hubble, đó là Ralph Steinman, giải Nobel Y học 2011. Chỉ có điểm khác “nhỏ nhoi”, Ralph Steinman mất vào ngày 30/9, tức trước khi Uỷ ban xét giải bỏ phiếu 1 ngày thôi, nên họ chưa nhận được tin ông đã qua đời vì ung thư tuỵ (mà hình như khi gọi điện đến gia đình báo tin, Uỷ ban mới biết ông không thể đến được Stockholm để lĩnh giải nữa). Sự đã rồi, nên ông Steiman vẫn được hưởng sự danh giá này tuy giải Nobel chưa bao giờ có tiền lệ truy tặng cho người đã chết.
Các thành tựu trong thiên văn học ngày càng có ích hơn trong đời sống. Ảnh minh họa. |
Và từ đó, các nhà vật lý thiên văn đã hình thành một đội ngũ Nobel gia ngày càng đông đảo.
Năm 1967, Hans Bethe (1906-2005) được trao giải Nobel về các công trình nghiên cứu sự sản sinh năng lượng trong các vì sao.
Năm 1978, Arno Penzias và Robert Wilson được trao giải Nobel 1978 về những quan sát sóng vô tuyến milimet kết hợp với bức xạ thiên thể từ khi vũ trụ hình thành. Các kết quả đã được kiểm tra lại bằng vệ tinh COBE, do hai nhà thiên văn hai chục năm sau là John Mather và George Smoot thực hiện.
Năm 1983, Chandrasekhar và William Fowler được trao giả Nobel nhờ lý thuyết về các hoạt động nội tại của các vì sao và những quá trình biến đổi hạt nhân dẫn đến sự bốc cháy và chuyển hoá các nguyên tố trong đó.
Năm 2002, Ray Davis được trao giải Nobel cho những đóng góp vào Thiên văn học tia X, cùng với Masatoshi Koshiba và Riccardo Giacconi - những người đi tiên phong trong thiên văn học nơtrino.
Năm 2006, John Mather và George Smoot được trao giải Nobel vì khám phá ra bức xạ đen, loại bức xạ nền vũ trụ mà người ta tin là đã phát sinh ra từ vụ nổ lớn (Big Bang) khi vũ trụ được sinh ra.
Rồi đến năm nay, 2011, giải Nobel lại một lần nữa đến với các nhà thiên văn. Ba nhà khoa học Saul Perlmutter, Brian Schmidt và Adam Riesse được trao giải với những khám phá mới về sự giãn nở tăng tốc của vũ trụ.
Kết quả là, kể từ khi gộp thêm lĩnh vực Thiên văn học, Vũ trụ học và Khoa học không gian, số lượng các giải Nobel về Vật lý ngày càng nhiều chẳng có gì là lạ cả.
Rõ ràng, những khám phá mới đã và đã và đang mở ra theo hai hướng: vi mô và vĩ mô. Vĩ mô là những ngành khoa học mà chúng ta vừa nhắc đến, trên quy mô không chỉ hàng chục, hàng triệu mà hàng tỷ năm ánh sàng.
Tuấn Hà