Khi khuyến nghị giảm lãi suất cơ bản xuống còn 8%, Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia cho rằng, nguy cơ tiền gửi được rút khỏi hệ thống ngân hàng trong điều kiện hiện nay là rất thấp.

Nền tảng

Báo cáo đánh giá về tình hình KTXH 11 tháng của Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia (UBGS) tiếp tục gây được chú ý khi đưa ra đánh giá, tình hình kinh doanh sản xuất của DN hiện nay vẫn trong giai đoạn rất khó khăn. Số DN giải thể và tạm ngừng hoạt động trong tháng 11 - theo số liệu của UBGS - đang tiếp tục tăng so với 9 tháng đầu năm và chưa có dấu hiệu dừng lại. Cơ quan này, theo đó, kiến nghị Chính phủ cần sớm hành động quyết liệt, đưa ra những giải pháp cụ thể đi thẳng vào giải quyết vấn đề tháo gỡ khó khăn cho DN.

UBGS cho rằng, có thể mạnh dạn hạ lãi suất huy động và lãi suất cơ bản khoảng 1% so với lãi suất hiện nay (xuống còn 8%), đồng thời khống chế trần lãi suất cho vay đối với DN sản xuất kinh doanh không vượt quá 150% lãi suất cơ bản theo luật định, nhằm giảm chi phí tài chính cho DN.

Đưa ra khuyến nghị trên, UBGS nhìn nhận, cơ sở để giảm lãi suất hiện khá rõ ràng mà theo đó, (i) lợi suất trái phiếu Chính phủ đang có xu hướng giảm trong những tháng cuối năm và (ii) lạm phát đang được kiểm soát chặt chẽ và có thể giảm dưới mức 8%. Bên cạnh đó, (iii) dự trữ ngoại hối hiện nay khá dồi dào, tình trạng đôla hóa cũng giảm đáng kể do tỉ giá được duy trì ổn định trong một thời gian khá dài và việc nắm giữ ngoại tệ không còn là công cụ kiếm lời ưu tiên của dân cư. Do đó, việc hạ lãi suất VND sẽ không có tác động đến sự chuyển dịch tài sản sang USD (nếu có).



Khi thực hiện giảm lãi suất VND, chênh lệch giữa lãi suất tiền gửi và lạm phát được cho sẽ gần như không còn. Song UBGS nhìn nhận, nguy cơ tiền gửi được rút khỏi hệ thống NH để chuyển sang các kênh đầu tư khác là rất thấp, khi các kênh đầu cơ như vàng, bất động sản, chứng khoán đang gặp nhiều khó khăn, khó có khả năng sinh lời và thậm chí lỗ vốn. Hơn nữa thực tế cho thấy, dù lãi suất NH thời gian qua giảm tới 5%, nhưng tổng số dư tiền gửi tại các TCTD vẫn tăng đều mỗi tháng và đang tăng khoảng 15% so với đầu năm.

Đắng vì lãi suất

Kiến nghị của UBGS được đưa ra trên bối cảnh, ngoài các chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu và cước vận tải tăng, việc phải gánh chịu chi phí tài chính cao (với lãi suất trên 15%/năm) trong một thời gian dài suốt hơn 30 tháng qua làm khó khăn của DN tăng thêm. Chi phí lãi vay cao, dẫn đến chi phí tài chính cao chính là yếu tố làm lợi nhuận suy giảm, gây cản trở quá trình phục hồi của DN và đây cũng là hai chi phí tác động tiêu cực mạnh nhất tới hoạt động sản xuất kinh doanh của DN so với các chi phí khác. Khảo sát khu vực DN do UBGS thực hiện cho thấy, chỉ tính đến thời điểm kết thúc quý I/2012, chi phí tài chính của DN tăng lên gần 25% so với cuối năm trước. Điều này làm cho tỉ lệ chi phí tài chính trên giá thành sản phẩm tăng lên mức khoảng 7%, so với mức lần lượt 4,72% và 5,56% của năm 2010 và 2011.

Việc giảm lãi suất huy động và ấn định trần lãi suất cho vay sẽ góp phần khơi thông nguồn vốn tín dụng đang đóng băng trong các NH. Cũng nhằm góp phần khơi thông nguồn vốn này và thúc đẩy tổng cầu năm 2013, UBGS kiến nghị Chính phủ có thể đẩy mạnh bảo lãnh vay tín dụng NH hoặc phát hành trái phiếu Chính phủ bảo lãnh cho chủ đầu tư những dự án BOT hiện đang rất cần vốn để hoàn thành. Đồng thời sớm thông qua kế hoạch phát hành trái phiếu công trình cho năm 2013 nhằm chủ động kiểm soát lượng vốn đầu tư của nền kinh tế. Đặc biệt, trong trường hợp tăng trưởng tín dụng năm 2013 tiếp tục đạt mức thấp như năm 2012 nhằm đảm bảo mức tổng vốn đầu tư toàn xã hội cần thiết để đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP 5,5% trong năm 2013 vẫn sẽ được duy trì ở mức tương đương 30% GDP như mục tiêu đề ra.

Theo tính toán của UBGS, giả định tăng trưởng tín dụng năm 2013 chỉ đạt mức tăng 12, 14 hoặc 16%, để đạt được mức tổng vốn đầu tư toàn xã hội tương đương 30% GDP, vốn đầu tư cần có thêm lượng vốn tương ứng khoảng 130.000 – 100.000 - 70.000 tỉ đồng.

Theo tính toán, lãi suất ở VN hiện đang cao hơn rất nhiều, từ 2-3 lần so với các nước trong khu vực. Do đó, nếu giả sử các yếu tố khác không đổi thì giá thành sản phẩm ở VN đang cao hơn so với Ấn Độ 2%, Thái Lan 2,51%, Trung Quốc là 2,6% và Singapore là 2,8%. 

(Theo Lao động)