Lần theo nhiều nguồn tư liệu, chúng tôi đã tìm được nhân chứng sống từng tự tay mổ bụng ở nhà lao Phú Quốc. Ông là Vũ Văn Kim, ở thôn Bút Tháp (Đình Tổ, Thuận Thành, Bắc Ninh).

TIN BÀI KHÁC


“Kịch bản chết”

Ký ức về nhà lao Phú Quốc rực cháy với những kỷ niệm về đồng đội, sự tra tấn dã man và những cuộc đấu trí sinh tử để hoạt động cách mạng vẫn như đang hiện hữu trước mắt ông. Năm 1965, khi vừa tròn 18 tuổi, ông chia tay mái trường, để lại mẹ già, em thơ cùng mối tình học trò trong sáng đi theo tiếng gọi non sông.

Ông Kim kinh hoàng nhớ lại những ngày ở nhà tù Phú Quốc.

Ông Kim bồi hồi nhớ lại: “Trong một lần tập kích vào sân bay Quy Nhơn - Bình Định, tôi đã trọng thương và bị bắt. Sau đó chúng đưa tôi đến nhà lao Phú Quốc. Khi đối diện với những cảnh tra tấn thừa sống thiếu chết như bắt ăn phân, đục răng, đục chân, đục óc, đánh đập, roi quất tóe máu... có lúc trong đầu tôi thoáng nghĩ đến cái chết cho nhẹ nhàng. Nhưng cái chết như thế là vô nghĩa, là có tội với Tổ quốc. Tôi quyết phải sống mà hoạt động cách mạng ở trong tù”.

Ở nhà lao Cây Dừa, những người chiến sĩ cộng sản đã phải vận dụng hết chất xám để đấu tranh sinh tử. Mới đầu tổ chức hoạt động bí mật, khi bị lộ thì chẳng ai nhận, chúng cứ bắt, cứ giết kiểu tùy chọn. Chúng đã giết mất nhiều cán bộ đầu não khiến cách mạng tổn thất nặng nề. Từ năm 1969, anh em tù thống nhất một số người sẽ đứng ra nhận tội thay thế các cán bộ lãnh đạo khi hành tung bại lộ (trừ khi chúng bắt được tận tay mới phải chịu). Số đó là các anh em đã bị giặc tra tấn tàn phế, một số anh em tình nguyện chết để tổ chức được an toàn.

“Kịch bản chết” được tập rất kỹ trước khi tiến hành nhiệm vụ: Chọn người tình nguyện đứng ra nhận khi hành tung bại lộ, cách ứng phó, mọi lời khai của diễn viên đóng thế phải logic với hành động của người trực tiếp đứng ra làm…
Tháng 3/1971, ông Kim và các đồng chí tiến hành đào hầm trốn thoát. Công cuộc đào hầm rất cầu kỳ. Số đất đào mỗi ngày chỉ đủ hòa tan với thùng phân để chúng không phát hiện được. Trong hệ thống đường hầm có vô vàn hầm giả, kiểm tra nhiều cũng không có kết quả. Khi nào chúng lơ là, các ông lại đào tiếp. Thật không may, khi đào đường hầm được 24m ra bãi rác thì ông Kim và 12 anh em bị bắt và bị tra tấn dã man.

Cuốn sổ nhàu nát là ghi lại những tháng ngày đau thương.

Chúng dùng đòn phủ đầu với các tù nhân: “Ông Vũ Văn Kim đã khai ra những kẻ đào hầm. Nếu ai bước ra nhận tội thì sẽ được sống, bằng không thì sẽ bị bắn”. Vừa nói, chúng vừa giương súng về phía các tù nhân, lên đạn dọa bắn. Đúng như kịch bản dựng sẵn, 3 người đã đứng ra nhận tội, là các anh em thương tật, tình nguyện hy sinh để tổ chức được an toàn.

Với ông Kim, chúng đánh đập dã man, khiến ông phải dùng chiêu nín thở giả chết. Ông kể: “Lúc đó tôi nặng 30kg, đấm một cái thì thiếu, đá một cái thì thừa, nên chúng chỉ đánh được vài cái là tôi đã ngất, chúng lại quẳng tôi về buồng giam”. Gần 10 năm đấu tranh kiên cường, cân não với địch, chính tay ông đã đào được 5 cái hầm. Cứ mỗi lần bị bắt, tra tấn, ông lại dùng chiêu nín thở giả chết. Về sau chiêu này được anh em áp dụng mỗi khi bị địch tra tấn.


Nhiệm vụ tự mổ bụng, moi ruột

Ông Kim cho chúng tôi xem cuốn sổ “điểm lại mười năm” tù đày. Mỗi ngày tháng là một sự kiện xúc động, đáng nhớ của cuộc đời ông. Xúc động nhất là nhiệm vụ “mổ bụng quyết tử”. Trong một lần đào hầm bại lộ, tỉnh lại sau đòn tra tấn, ông suy luận: “Tại sao tên cai ngục lại biết tên mình khi đang đào dưới hầm kín? Chắc chắn trong tổ đào hầm có nội gián”. Sau đó, ông điều tra ra tên Mầu. Tổ chức đã giao nhiệm vụ cho ông Kim cùng 3 cựu tù khác xử hắn.

Ông Kim và những vết rạch bụng được đánh dấu.

Sau sự kiện này, ông bị địch khép tội “cố ý giết người vô tội”, bị đày ra nhà lao quân sự Cần Thơ. Trước khi bị đày đi Cần Thơ, tổ chức kết nạp ông với lời dặn dò: “Từ giờ phút này đồng chí được đứng trong hàng ngũ của Đảng, dù ở đâu, khi gặp tổ chức đồng chí hãy nói mình là Đảng viên”. Ông tự nghĩ mình phải hành động xứng đáng là Đảng viên.

Ông Kim nhớ lại những tháng ngày kinh hoàng: “Tại nhà lao quân sự Cần Thơ, chúng nhốt tôi vào phòng giam đặc biệt với những lớp thép gai dày đặc, chỗ ăn ở với chỗ vệ sinh là một. Chúng tra tấn dã man, cho ăn uống chỉ đủ ở mức cầm hơi. Ốm đau, bệnh tật sẽ tự chết!”.

Ông Kim nhớ như in cuộc đấu tranh với địch ở Tòa án binh Cần Thơ. Phiên tòa thứ nhất chúng kết tội ông “cố ý giết người” và đưa ra mức án tử hình. Ông đấu tranh pháp lý với địch tại tòa, đồng đội ra sức ủng hộ, buộc chúng phải mở phiên tòa phúc thẩm. Tại phiên phúc thẩm, chúng xử ông 21 năm tù, ông tiếp tục đấu tranh. Ngày 24/2/1972 phiên tòa thứ 3 xử ông với mức án 10 năm tù. Chúng có ý định đày ông cùng 3 đồng chí đến Côn Đảo với mục đích “giết tù nhân không cần tốn viên đạn nào” . Lúc đó ông nhận được lời mật báo của Trung ương cục miền nam: “Các đồng chí hãy vững tin chiến đấu, tin vào thắng lợi ngày mai. Đảng và nhân dân luôn bên cạnh các đồng chí”.

Ông Kim và người bạn tù, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang.

Để chống lại âm mưu đày ông và các đồng chí ra Côn Đảo, cuộc tuyệt thực bắt đầu vào ngày 27/2/1974. Chúng dẹp bằng âm mưu giả làm bác sĩ để chia rẽ từng người rồi giết hết. Ngay sau đó chi bộ nhà lao lập “nhiệm vụ quyết tử” gồm 2 bước. Bước thứ nhất là tự rạch bụng mình trước kẻ địch để xem động thái chúng thế nào? Nếu chúng vẫn không chịu giải quyết yêu sách thì sẽ chuyển sang bước thứ hai là mổ bụng moi ruột để thể hiện sự phẫn nộ.

Mặc dù sau 5 ngày tuyệt thực, sức khỏe yếu, nhưng ông Kim vẫn gượng dậy xin được thực hiện nhiệm vụ quyết tử. Ông đứng lên hô to khẩu hiệu: “Hiệp định Pari đã ký kết được hơn 1 năm, nhưng đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn không những không trao trả tù binh cho chính phủ Cách mạng mà còn giết dần, giết mòn anh em chúng tôi. Chúng tôi cực lực lên án đế quốc Mỹ và nhà cầm quyền Sài Gòn”. Vừa dứt lời, ông cầm dao liên tiếp rạch vào bụng.

“Tôi cầm dao rạch một nhát, máu chảy ít quá, nên tôi rạch liên tiếp 6 nhát nữa để chứng tỏ ý chí kiên cường của người Đảng viên, bày tỏ sự phẫn nộ cực điểm với chính sách của địch. Rạch xong 6 nhát, máu chảy xối xả, tôi lịm đi, thoát khỏi nỗi đau thể xác” - ông Kim nhớ lại giây phút kinh hoàng với giọng hào sảng. Sự kiện này đã tạo làn sóng phẫn nộ khắp quốc tế, buộc Mỹ - Ngụy phải trao trả các ông cho cách mạng vào ngày 7/3/1974. Thật may mắn, ông Kim đã được đồng đội cứu sống.

Hiện ông Kim là Trưởng ban liên lạc cựu tù binh thời chống Mỹ tỉnh Bắc Ninh. Mặc dù trở về với cuộc sống đời thường, nhưng ông vẫn thường xuyên liên lạc với đồng đội cũ, cùng ôn lại thời oanh liệt. Bây giờ có người thương tật, có người cuộc sống khó khăn, nhưng tinh thần “vào sinh, ra tử” thể hiện bằng sự giúp đỡ lẫn nhau trong thời bình vẫn đẹp biết bao. Ông Kim xúc động: “Tôi đã may mắn trở về từ cõi chết, nhưng tôi sẽ không bao giờ quên những anh em cùng sinh ra tử, cùng tranh chết để đồng đội sống... Xin được gửi những lời tri ân đến các anh – những người chiến sĩ kiên cường của nhà lao Phú Quốc”.

(Theo VTC News)