Trong chính trị quốc tế, sức mạnh vũ trang với tư cách là một mối đe doạ hoặc khả năng tiềm tàng là một trong những nhân tố vật chất quan trọng nhất cấu thành nên quyền lực chính trị của một quốc gia.
Quyền lực chính trị là gì?[1]
Chính trị quốc tế, giống như mọi loại chính trị khác, là một cuộc tranh giành quyền lực. Bất kể mục đích cuối cùng của chính trị quốc tế là gì, quyền lực luôn luôn là mục đích tức thì. Chính trị gia và các dân tộc có thể rốt cuộc muốn tìm kiếm tự do, an ninh, sự thịnh vượng, hay chính bản thân quyền lực.
Họ có thể xác định mục tiêu của mình trên góc độ lý tưởng về tôn giáo, triết học, kinh tế hoặc xã hội. Họ có thể hy vọng rằng những lý tưởng trên có thể thành hiện thực thông qua chính nội lực của mình, qua sự can thiệp của Chúa trời, hoặc thông qua sự phát triển tự nhiên của những vấn đề nhân sinh.
Nhưng bất kể khi nào họ đấu tranh để đạt được những mục đích của mình thông qua phương tiện chính trị quốc tế, họ phải thực hiện bằng tranh đấu quyền lực. Những chiến binh Thập Tự Chinh muốn giải phóng các vùng đất Thánh khỏi sự thống trị của những kẻ ngoại đạo; Woodrow Wilson muốn thế giới an toàn cho chế độ dân chủ; Đảng Quốc gia Xã hội muốn biến Đông Âu thành thuộc địa của Đức nhằm chế ngự châu Âu và sau đó thống trị thế giới. Bởi họ chọn con đường quyền lực để đạt được các mục đích này, họ trở thành những diễn viên trên sân khấu chính trị quốc tế. [2]
Khi đề cập đến khái niệm quyền lực, chúng ta cần hiểu rằng chúng ta không phải đang nhắc đến thứ sức mạnh tự nhiên của con người, cũng không phải là sức mạnh của anh ta đối với các phương tiện nghệ thuật như ngôn ngữ, diễn đạt, âm thanh hay màu sắc, cũng không phải sức mạnh đối với các phương tiện sản xuất hay tiêu dùng, và cũng không phải sức mạnh của anh ta đối với chính bản thân mình theo nghĩa là khả năng kiểm soát bản thân.
Khi đề cập đến khái niệm quyền lực, chúng ta muốn nhắc đến việc chi phối suy nghĩ và hành động của người này đối với người khác. Khi nói đến quyền lực chính trị, chúng ta nhắm tới những mối quan hệ của sự chi phối lẫn nhau giữa những người nắm giữ quyền lực công và giữa họ với công chúng nói chung.
Tuy nhiên, quyền lực chính trị phải được phân biệt rõ ràng với vũ lực theo nghĩa là việc thực thi bạo lực thể chất trên thực tế. Sự răn đe bằng các hành vi bạo lực thể chất thông qua hình thức hoạt động của cảnh sát, việc tống giam, xử tử hình, hoặc gây chiến…là một thành tố cố hữu của chính trị. Khi bạo lực xảy ra, nó biểu thị cho việc quyền lực chính trị bị từ bỏ nhường chỗ cho quyền lực quân sự hay mang tính chất quân sự.
Đặc biệt trong chính trị quốc tế, sức mạnh vũ trang với tư cách là một mối đe doạ hoặc khả năng tiềm tàng là một trong những nhân tố vật chất quan trọng nhất cấu thành nên quyền lực chính trị của một quốc gia. Nếu xảy ra trong chiến tranh, nó biểu thị cho việc thay thế quyền lực chính trị bằng quyền lực quân sự.
Việc tiến hành bạo lực thể chất trên thực tế thay thế cho mối liên hệ về tâm lý giữa hai tư duy con người –vốn là bản chất của quyền lực chính trị - bằng mối liên hệ thể chất giữa hai con người, mà trong đó một bên đủ mạnh để chế ngự sự hoạt động của bên còn lại. Vì lý do này mà khi việc thực thi bạo lực thể chất diễn ra, yếu tố tâm lý của quyền lực chính trị đã bị đánh mất, và vì thế chúng ta phải phân biệt rõ ràng giữa quyền lực quân sự và quyền lực chính trị.
Quyền lực chính trị là một mối quan hệ về tâm lý giữa những người thực thi quyền lực với những người bị tác động. Nó cho phép người thực thi quyền lực kiểm soát những hành động nhất định của người bị tác động thông qua ảnh hưởng mà người thực thi quyền lực gây nên đối với nhận thức của người bị tác động. Ảnh hưởng đó có thể tồn tại dưới dạng mệnh lệnh, đe doạ, thuyết phục hoặc là kết hợp giữa những hình thức trên.
Tổng thống Mỹ là một ví dụ, thực thi quyền lực chính trị của mình đối với nhánh hành pháp của chính phủ miễn là các mệnh lệnh của Tổng thống được các thành viên trong nhánh tuân theo. Lãnh đạo của một Đảng phái có quyền lực chính trị chừng nào mà ông ta có khả năng tạo ra khuôn mẫu hành động cho các thành viên theo ý muốn của mình.
Chúng ta cũng có thể nói tới quyền lực chính trị của một nhà tư bản công nghiệp, lãnh đạo nghiệp đoàn hay một người vận động hành lang nếu như mong muốn của anh ta có ảnh hưởng đến hành động của những người khác. Mỹ áp đặt quyền lực chính trị của mình lên Puerto Rico chừng nào mà những đạo luật của Mỹ vẫn được tuân thủ bởi những công dân của hòn đảo này. Khi nhắc đến quyền lực chính trị của Mỹ tại Trung Mỹ, chúng ta nghĩ tới sự phù hợp trong hành động của chính quyền các quốc gia này đối với ý chí, nguyện vọng của chính phủ Mỹ. [3] Do vậy, nói rằng A có hoặc muốn có quyền lực chính trị đối với B luôn luôn có nghĩa rằng A có thể, hoặc muốn có thể chi phối những hành động nhất định của B thông qua ảnh hưởng đối với suy nghĩ của B.
Bất kể các mục đích vật chất của chính sách đối ngoại là gì, ví dụ như là việc chiếm hữu các nguồn nguyên liệu thô, kiểm soát các tuyến đường biển, hoặc thay đổi về mặt lãnh thổ, chúng luôn luôn đòi hỏi sự kiểm soát hành động của đối tượng khác thông qua tác động lên suy nghĩ của họ.
Biên giới sông Rhine, một đối tượng suốt hàng thế kỷ trong chính sách đối ngoại Pháp, liên quan đến mục tiêu chính trị là phá huỷ tham vọng của Đức trong việc tấn công Pháp, bằng việc khiến Đức gặp khó khăn hoặc không thể làm được việc đó. Nước Anh có được vị trí ưu thế đối với chính trị thế giới trong suốt thế kỉ XIX là nhờ vào những chính sách được tính toán nhằm làm cho bản thân nó hoặc là quá nguy hiểm (vì Vương quốc Anh quá mạnh) hoặc khiến các quốc gia khác không muốn chống lại nó (vì sức mạnh của nó được sử dụng một cách chừng mực).
Mục tiêu chính trị của việc chuẩn bị quân sự dưới bất kì hình thức nào là nhằm răn đe những quốc gia khác không dám tấn công bằng cách làm cho việc tấn công trở nên quá rủi ro không đáng để thực hiện. Nói cách khác, mục tiêu chính trị của việc chuẩn bị quân sự là làm cho việc áp dụng sức mạnh quân sự trở nên không cần thiết bằng cách khiến các kẻ thù tiềm năng từ bỏ ý định sử dụng vũ lực quân sự.
Mục tiêu chính trị của chính bản thân chiến tranh không chỉ đơn thuần là chinh phục lành thổ và huỷ diệt quân đội kẻ thù, mà là một sự thay đổi trong suy nghĩ của kẻ thù – làm cho họ phải tuân theo ý chí của người chiến thắng.
Do đó, bất cứ khi nào những chính sách kinh tế, tài chính, lãnh thổ hoặc quân sự được xem xét trong đời sống quốc tế, điều cần thiết là phải phân biệt rõ giữa các đối sách kinh tế được thực hiện vì mục tiêu kinh tế đơn thuần và những chính sách kinh tế được sử dụng như các công cụ của chính sách chính trị, có nghĩa là một chính sách mà mục đích kinh tế của nó chỉ là phương tiện để đạt được mục tiêu kiểm soát các chính sách của một quốc gia khác.
Chính sách xuất khẩu của Thuỵ Sĩ đối với Mỹ được xếp vào nhóm đầu tiên. Chính sách kinh tế của Liên Xô đối với các quốc gia trong khu vực Đông và Đông Nam Âu lại được xếp vào nhóm thứ hai. Tương tự như vậy đối với nhiều chính sách của Mỹ ở khu vực Mỹ Latinh và châu Âu. Sự phân biệt này có tầm quan trọng rất lớn trong thực tiễn, và nếu không phân biệt được chúng sẽ dẫn đến nhiều sự bối rối trong chính sách lẫn công luận.
Một chính sách kinh tế, chính trị, lãnh thổ hoặc quân sự được hoạch định bởi chính lợi ích của nó lại cần được đánh giá theo những tiêu chí của riêng nó. Liệu nó có lợi về tài chính hay kinh tế hay không? Việc chiếm hữu lãnh thổ có tác động như thế nào đối với dân cư và nền kinh tế nước chiếm hữu? Hệ quả nào xảy ra đối với hệ thống giáo dục, dân số và nền chính trị trong nước khi có một sự thay đổi trong chính sách quân sự? Các quyết định liên quan đến những chính sách đó được đưa ra hoàn toàn bằng các cân nhắc nội tại như vậy.
Tuy nhiên, khi mục tiêu của những chính sách này là nhằm gia tăng quyền lực chính trị của một quốc gia đối với các quốc gia khác thì những chính sách này và mục đích của chúng phải được đánh giá chủ yếu trên phương diện liệu các chính sách đó đóng góp ra sao cho quyền lực quốc gia. Một chính sách kinh tế dù không thể biện minh được chỉ bởi những yếu tố kinh tế đơn thuần thì vẫn có thể được thực hiện nếu xét tới chính sách chính trị đang được theo đuổi. Tính không an toàn và không mang lại lợi nhuận của một khoản cho vay với nước ngoài có thể trở thành một luận điểm chống lại nó nếu chỉ xét đến các cơ sở tài chính đơn thuần. Nhưng luận điểm đó không còn hợp lý nếu khoản cho vay, bất kể thiếu khôn ngoan như thế nào trong con mắt của một người làm ngân hàng, là nhằm phục vụ những mục tiêu chính trị của quốc gia.
Dĩ nhiên, cũng có thể rằng các tổn thất về mặt kinh tế và tài chính liên quan đến các chính sách như vậy có thể làm suy yếu vị thế quốc gia trên chính trường quốc tế tới một mức độ lớn hơn cả những lợi ích chính trị được mong đợi. Từ những căn cứ đó, các chính sách trên có thể bị bác bỏ. Tuy nhiên, trong trường hợp này, điều quyến định vấn đề không phải là các cân nhắc về kinh tế và tài chính đơn thuần mà là sự so sánh những thay đổi về chính trị và những rủi ro liên quan, nghĩa là những tác động khả dĩ của những chính sách này đối với quyền lực quốc tế của quốc gia.
Kì 2: Sự suy giảm về quyền lực chính trị
Biên dịch: Võ Hoàng Phương Nhung; Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
Bài được đăng lại từ Nghiencuuquocte.net
------------------------------
Chú thích:
[1] Khái niệm quyền lực chính trị là một trong những vấn đề khó khăn và gây nhiều tranh cãi nhất của khoa học chính trị. Gía trị của bất cứ khái niệm cụ thể nào đều sẽ được quyết định bởi chính khả năng của nó trong việc giải thích tối đa các hiện tượng mà thông thường được xem là nằm trong một phạm vi nhất định của hoạt động chính trị. Do đó một khái niệm quyền lực chính trị nếu muốn hữu ích cho việc tìm hiểu chính trị quốc tế phải được mở rộng hơn khái niệm được dùng trong phạm vi chính trị quốc gia. Những phương tiện được sử dụng trong chính trị quốc gia có giới hạn hẹp hơn nhiều so với những phương tiện được sử dụng trong chính trị quốc tế.
[2] Để biết thêm một vài quan điểm gợi mở về quyền lực trong quan hệ với chính trị quốc tế, xem Lionel Robbins, The Economic Causes of War (London: Jonathan Cape, 1939), p. 63.
[3] Các ví dụ đưa ra trên còn chỉ rõ sự khác biệt trong quyền lực chính trị như một thực tế xã hội, như trong trường hợp của các nhà vận động hành lang, và quyền lực chính trị trong vai trò một thẩm quyền hợp pháp, ví dụ như thẩm quyền của Tổng Thống Mỹ. Cả Tổng thống Mỹ và những người vận động hành lang đều thực hành quyền lực, cho dù có sự khác biệt trong nguồn lực và bản chất của quyền lực đó.