Chỉ còn mái đình và những chiến công vang dội núi sông của  các bậc thánh nhân là ở lại, để nhắn nhủ con cháu Lạc Hồng, hãy đoàn kết một lòng để gữi gìn trọn vẹn núi sông bờ cõi Việt Nam.

>> 'Áo giáp chở che ngàn năm bền vững'

Những tháng năm dạt trôi trên đất lạ xứ người, mỗi khi chạnh lòng nhớ về quê cha đất tổ, thì một trong những hình ảnh thân yêu, nồng đượm, khắc rõ nét nhất trong trái tim tôi là Đình làng. Mái đình vút cong, đứng uy nghi dưới bóng đa cổ thụ và in hình bên giếng đất đầu làng, đã bao năm nay, làm tôi mong nhớ đến nao lòng.

Đình làng tôi dựa lưng vào khu đất cao, mặt ngoảnh hướng Nam, nhìn ra cánh đồng Diệc bát ngát thẳng cánh cò bay. Tuổi thơ của tôi đã gửi gắm lại nơi này biết bao kỷ niệm êm đềm. Một trưa đi cày về, thấy tôi ngồi hí hoáy vẽ cảnh đình, bác tôi - người duy nhất còn lại trong làng biết chữ Nho-  gọi tôi vào nhà, mang cho xem bản "Sắc Rồng" mà vua đã tặng phong cho "Tứ vị đại vương"- tức Thần Hoàng làng tôi.

Chuyện rằng, cái thời mà đất trời của trăm họ Lạc Việt còn đang ở buổi sớm mai mờ mịt, thì nhà Tần bên Trung Quốc khởi 50 vạn tinh binh sang xâm lược nước ta. Lúc này vua Hùng đã già yếu, được sự đồng lòng của trăm họ, vua đã nhường quyền lãnh đạo kháng chiến cho Thục Phán. Vậy là đất của người Âu Lạc ra đời. Nghe theo lời hiệu triệu cứu nước của vua, dưới sự chỉ huy của tứ Thánh, làng Phó Hoa quê tôi, cùng dân trong vùng đứng lên chống giặc.

Tứ Thánh, thực ra là bốn người con trai của ông Đinh Công Bách và bà Tô Nương Nghi ở  Phó Hoa xã. Các ông đều thông kim bác cổ, văn võ song toàn, đều là lạc tướng của vua Hùng.

Trước hoạ xâm lăng của giặc Tần, các ông ra lập đàn ở giếng đất phía tây làng, cắt máu ăn thề để tỏ tấm lòng trung hiếu trước vận mệnh của đất nước. Khi quân Tần tới nơi, tướng giặc sai người đem ngọc ngà châu báu, dâng biếu các ông để dụ hàng. Nhưng chúng không thể mua chuộc được tấm lòng son và ý trí sắt đá của bốn vị Lạc tướng. Ngày đêm họ luyện tập võ nghệ cho các trai tráng và hướng dẫn nhân dân rào làng kháng chiến.

Nhưng quân giặc quá đông, chúng tiến quân theo cả đường thuỷ lẫn đường bộ và rất tàn bạo. Nên theo lệnh vua, họ phải rút về núi để bảo toàn lực lượng và chuẩn bị kháng chiến lâu dài. Người anh cả là Liêm Công và người em út là Bùi Công, chọn một số nghĩa sỹ ở lại bám làng chiến đấu, cản bước tiến của quân thù. Nghĩa quân chiến đấu dũng cảm quên thân, họ cầm chân giặc được đến ngày hôm sau thì lần lượt hy sinh. Hai anh em nắm tay nhau, nhìn đất mẹ lần cuối, rồi hoá ngay ở giếng nước đầu làng.

{keywords}
Ảnh minh họa. Nguồn: Baobacgiang.com.vn

Quân Tần truy kích tiếp đến đầm Cốc, thì bị nghĩa quân của các ông Vĩnh Công và Dũng Công chặn lại. Một trận huyết chiến không cân sức nữa lại diễn ra vô cùng ác liệt suốt một ngày một đêm. Cuối cùng vì địch vây quá dày, không mở được đường máu về núi và quyết không chịu sa vào tay giặc, bên dòng suối quê hương, hai ông đã rút dao ngắn bên người ra đâm cổ tự vẫn. Bốn ông hoá xong thì trời vần vũ đổ mưa, sấm chớp tối đen trong ba ngày.

Mười năm sau, khi cuộc kháng chiến chống Tần thắng lợi, trở về làng, dân quê tôi đã rước Bài vị của các ngài về lập bàn thờ. Sau này được vua cấp sắc, phong là linh ứng Đai Vương và nhân dân đã tạc tượng, xây đình để thờ cúng. Cho đến tận ngày nay, các ông vẫn là những người "hộ quốc tỳ dân" trong vùng. Đó là Phúc thần của làng tôi.

***

Trước Cách mạng tháng 8 năm 1945, trong nhà ông nội tôi có nuôi giấu một người hoạt động Cách mạng. Người này có một cái tên rất "Tam quốc": Tiểu Vân Trường. Ông rất giỏi võ, đi đâu cũng chỉ độc một cái khăn mặt ướt vắt vai. Vậy mà vẫn lấy được cả dao, cả kiếm của bọn cướp đường.

Đình thờ tứ Thánh bên giếng làng, đã được Tiểu Vân Trường chọn làm nơi dạy võ và tuyên truyền cách mạng cho tầng lớp thanh niên trong vùng. Năm anh em trai của cha tôi, sau này đi tham gia cách mạng, đều xuất thân từ lò võ sân đình của làng tôi.

Ngày tổng khởi nghĩa, cha tôi hăng hái tham gia cướp chính quyền ở tỉnh lỵ Phú Thọ. Bác tôi kể lại: "chú Tư ghê lắm, vác cờ Việt Minh, dẫn đầu đoàn người từ cầu Trắng kéo xuống thị xã. Bọn lính Nhật lưỡi lê tuốt trần, giương súng nhắm vào cờ mà không thằng nào dám bắn". Trong một lần đi công tác, chờ tàu ở ga Phú Thọ, cha tôi bị bọn Việt Nam Quốc dân đảng, làm mật thám trong ty liêm phóng quây bắt. Gặp lúc tình huống hiểm nghèo nhất, bác tôi đã dùng miếng "khăn mặt vắt vai", giật được súng của một tên Việt gian, cứu cha tôi thoát chết trong gang tấc.

Còn chú Năm tôi thì cũng đã nhờ dùng miếng võ này, trói được tên cai ngục, cùng các đồng chí của mình thoát khỏi nhà tù Hoà Bình, trở về tiếp tục hoạt động cách mạng.

***

Năm 1967, làng tôi có bộ đội về. Đó là một trung đội trinh sát thuộc tiểu đoàn 31 của quân khu. Họ còn rất trẻ và cùng đến từ mọi miền đất nước. Sân đình làng tôi lại được các anh chọn làm nơi luyện tập võ thuật và đắp sa bàn. Trên sân đình, mỗi sớm dàn quân theo đội hình 9630 để tập đánh lê, cả trung đội cùng đồng thanh hô vang. Tôi lặng người đi, bỗng thấy như âm vang của "sát Thát", từ trăm nghìn năm uy vũ Lý -Trần xưa vọng về. Rồi tối đến tối, trung đội họp ở sân đình, làng tôi lại được nghe những âm thanh trầm hùng, cất lên từ những lồng ngực yêu đời của những người lính trẻ:

" Ta là người trinh sát

Nhẹ bước chân xa vời

Như bầy chim tung cánh

Bay khắp bốn phương trời..."

Lúc này chiến tranh diễn ra ngày càng ác liệt trên cả hai miền đất nước. Nó đã cuốn đi theo mình nhiều thế hệ trai làng ra mặt trận. Khi mà trung đội trinh sát từ biệt dân lên đường đi chiến đấu, thì cũng là đến lúc lớp anh em chúng tôi lớn lên. Sứ mệnh bảo vệ và giải phóng Tổ quốc lại tiếp tục được trao vào tay lớp trẻ.

Trước khi lên đường chiến đấu dưới lá cờ "Quyết chiến quyết thắng", những thanh niên nhập ngũ đã đến làm lễ ở đình làng. Chúng tôi thề sẽ quyết tâm noi theo tấm gương kiên trung, bất khuất của các bậc tiên liệt : "dù gian lao khổ hạnh không sờn lòng, vào sống ra chết không nản chí" để xứng đáng với truyền thống dựng nước và giữ nước của cha ông.

Trong giây phút thiêng liêng ấy, máu trong người tôi trào dâng rạo rực. Tượng tứ Thánh uy nghi ngồi đó, ánh mắt hiền từ của các ngài toả sáng bao dung trong khói hương trầm mặc. Các ngài như những nhân chứng sống của lịch sử, nhìn thấy lớp lớp cháu con lên đường ra mặt trận, gìn giữ non sông gấm vóc.

Lúc ấy, hồn phách anh hùng hào kiệt từ thời dựng nước và giữ nước của cha ông, tự ngàn xưa như đang linh hiển. Tất cả những chiến công oanh liệt của họ như đang hiện về trước mắt chúng tôi - những người lính hậu duệ của bốn nghìn năm sau.

Năm anh em chúng tôi ra đi ngày ấy, thì có ba người nằm xuống và mãi mãi không trở về. Họ đã trung trinh giữ trọn lời thề với non sông đất nước.

***

Hơn hai mươi năm sống xa Tổ quốc, trên đường về quê, tôi đã tận mắt chứng kiến sự thay da đổi thịt của đất nước, nhiều chuyện trước kia, nay đã "vật đổi sao dời". Nhưng làng tôi thì vẫn vậy, vẫn thiêm thiếp ngủ dưới mái đình cổ kính rêu phong. Vẫn là cây đa cổ thụ toả bóng mát trưa hè, vẫn những cô thôn nữ chiều chiều ra giếng làng lấy nước.

Những giây phút thanh bình và nên thơ ấy, tôi không tìm thấy đâu như ở quê mình. Nhưng để có được nó, máu của biết bao anh hùng liệt sỹ đã đổ xuống đất này. Đình làng tôi, nơi đây kế tiếp nhau, nhiều thế hệ con người đã tới dâng hương cầu khấn, rồi lại lần lượt ra đi, đi mãi về nơi lãng quên xa thẳm...

Chỉ còn mái đình và những chiến công vang dội núi sông của  các bậc thánh nhân là ở lại, ở lại để tưới mát lòng người hậu thế, ở lại để nhắn nhủ con cháu Lạc Hồng, hãy đoàn kết một lòng để gữi gìn trọn vẹn núi sông bờ cõi Việt Nam.

Nguyễn Công Tiến

Bài cùng tác giả:

'Áo giáp chở che ngàn năm bền vững'

Đi xa quê, tôi lại  bồi hồi mỗi khi nghe trên đài tiếng nói Việt Nam vang vang giọng ca của Kiều Hưng: "Hà Tây! Cửa ngõ Thủ đô, áo giáp chở che ngàn năm bền vững".

 

>> Mời độc giả ghé thăm và đóng góp ý kiến cho trang Fanpage của Tuần Việt Nam